Phi Vũ 3

Thương nhớ lắm quê hương vời vợi

Suy Nghĩ Về Nhà Nước Việt Nam và Chính Sách “Nhận Tội-Xin Khoan Hồng”

Trích NguoiViet Boston

Việc Nhà nước Việt Nam liên tiếp bắt giữ các nhà bất đồng chính kiến và gây áp lực cho những tiếng nói bảo vệ lãnh thổ đất nước đã không còn là chuyện mới mẽ trong nhiều năm qua. Những phản biện và ý kiến chính trị trong một xã hội dân chủ văn minh luôn là cần thiết để phát triển con người và đất nước. Bày tỏ chính kiến là rất cần thiết và là QUYỀN của mỗi công dân trong một xã hội dân chủ mà bất kỳ thể chế nào, ở đâu cũng phải chấp nhận. Riêng cá nhân tôi đã từng bị giam giữ và nếm trải những thủ đoạn gian xảo của cơ quan an ninh để cuối cùng bị bắt ép quay những đoạn video theo ý họ. Tôi đã không lạ gì những mưu kế của cơ quan an ninh trong một nhà nước thiếu trung thực và sử dụng pháp luật tùy tiện. Việc cơ quan anh ninh trình chiếu những đoạn “video nhận tội” gần đây của luật sư Lê Công Định, thạc sĩ Nguyễn Tiến Trung, cựu trung tá Trần Anh Kim và doanh nhân Trần Hùynh Duy Thức thật ra chỉ nêu rõ thêm sự yếu kém, phản dân chủ và bất bình thường của một thể chế chính trị trong thời kỳ hội nhập thế kỷ 21.

Sự bất bình thường

Ngồi xem và suy ngẫm lại, khúc video đã bị cắt ghép nhiều đoạn đã không thuyết phục được tôi rằng các anh em dân chủ đã vi phạm luật pháp. Ngược lại, nó thể hiện ý chí đấu tranh cho tự do, dân chủ và công bằng của các anh em. Đoạn video chỉ nói lên được rằng các nhà dân chủ muốn góp phần với nhà nước để xây dựng xã hội công bằng dân chủ. Những hoạt động của anh em đơn thuần chỉ vì quyền lợi của dân tộc và lợi ích chung của tổ quốc Việt Nam. Vậy nếu họ bị bắt nhận tội, có chăng là tội trung thực vì không thông đồng với cái sâu mọt của nhà cầm quyền, và vì tội dũng cảm dám nói lên những điều mình muốn nói về một đất nước dân chủ. Tôi thấy rất bất thường khi một người phải nhận cái tội mà đối với anh em và thế giới, đó không phải là tội. Có ai họat động dân chủ cho đất nước một cách ôn hòa lại có tội bao giờ? Trong 147 điều của Hiến pháp Việt Nam chưa có điều lệ nào nói đến sinh hoạt chính trị là chống phá nhà nước. Nếu vậy thì mục tiêu “xã hội công bằng dân chủ văn minh” của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng rõ ràng vi phạm và chống phá nhà nước. Chúng ta cần phải hiểu rõ, làm đúng và nói thật.

Trong thời gian tại trại B34, tôi đã thấy rất rõ và không lạ lẫm với những cách hành xử của cơ quan an ninh điều tra để có được những đoạn video vừa qua. Bốn con người hoàn toàn khác nhau, bốn khối óc khác nhau và kinh nghiệm sống cũng trên lệch rất xa nhưng lại có một bản “nhận tôi, xin khoan hồng” rất giống nhau. Tôi chỉ có thể giải thích rằng cái “khuôn mẩu bản nhân tội” này là một sự cố ý trắng trợn có dàn dựng và có chủ trương, như cách họ đã làm với tôi cách đây chưa lâu. Nhìn lại thì tôi thấy chính mình trong những đoạn video ấy. Đoạn video mà chính các vị điều tra viên thuộc cơ quan an ninh điều tra cũng thừa biết rằng nhân vật chính đang bị ép phải đóng cho xong vai diễn của mình. Không những thế, chính các vị ấy biết rằng diễn viên chính không hề có tội. Đoạn video là thủ đoạn và mưu kế để tuyên truyền nhằm bào chữa hành vi sai trái của một chế độ và đánh lừa dư luận xã hội. Vì thực tế, Nhà nước và cơ quan an ninh điều tra vẫn không thể giải thích nổi thế nào là “hành vi chống phá nhà nước,” nếu không muốn nói thẳng đó là một quy định để bóp nghẽn sự thật và tiếng nói trung thực. Suy cho cùng, chỉ có sự dối trá và lừa bịp mới cần những biện pháp giải thích, điều chỉnh và đính chính. Chưa có một nhà nước pháp quyền nào dùng lời khai của phạm nhân đưa lên truyền hình để làm chứng cứ buộc tội. Vấn đề này không những không giải quyết và bảo vệ được thể diện của nhà nước, ngược lại, nó còn phơi bày sự sai trái của cả hệ thộng pháp lý. Vì muốn bị cho là có tội cần phải có những yếu tố cấu thành tội thể hiện qua nhân chứng và vật chứng. Và chỉ có môt đảng quyền mới cho phát hành những hồ sơ trong quá trình điều tra để bội nhọ và lăng nhục nhân phẩm của công dân nước mình. Bởi điều 72 Hiến pháp xác định rằng, “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.”

Việc cơ quan an ninh điều tra cô lập những người bị bắt giữ, không cho tiếp xúc và tư vấn pháp luật, cấm liên lạc với thế giới bên ngoài là hành động khủng bố tinh thần. Sự bất bình thường không phải từ những lời nhận tội của các chí hữu dân chủ, mà sự bất bình thường đến từ phía nhà nước. Nếu đầy đủ bằng chứng, nhân chứng thì việc tự nhận tội đã không cần thiết. Sự bất bình thường hiển nhiên nêu lên sự lúng túng, thiếu công bằng và bất lực trong hệ thống pháp quyền của Nhà nước Việt Nam. Nó cũng nói lên sự thiếu trung thực và thiếu trong sáng không riêng của cơ quan an ninh điều tra, mà của toàn đảng đầm quyền và Nhà nước. Cách hành xử trên trong một thời đại văn minh là quá lạc hậu và tối kỵ.

Thiếu trung thực và thiếu trong sáng

Tôi muốn khẳng định lại rằng sinh hoạt chính trị ôn hòa không thể bị coi là cái tội. Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam cũng không có điều luật nào ngăn cấm người dân hoạt động chính trị. Có chăng chỉ là điều lệ riêng được hiểu ngầm của một nhóm người đưa ra nhằm giữ độc quyền chính trị, cấu kết quyền lực và ngăn chặn sự phát triển, tự do của đất nước. Điều này cần phải chỉnh sửa cho phù hợp với Hiến pháp và quyền lợi chung của dân tộc, Tổ quốc. Tôi nhớ trong lúc hỏi cung tại trại B34, một vị điều tra viên đã nhiều lần kể công của Đảng Cộng sản về quá trình giành độc lập cho đất nước. Nhưng có một sai lầm mà vị này đã không nhìn thấy, hoặc đã phủ nhận, rằng công trạng giành độc lập là sức lực chung của toàn dân, và giành độc lập cho nhân dân Việt Nam chứ không phải công trạng hoặc chiến công của bất kỳ một cá nhân, bè nhóm hay đảng phái nào. Điều quan trọng nhất là điều hành đất nước ra sao sau khi có độc lập? Trần Độ, cựu đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam đã nói rằng, “tằm ăn lá dâu thì phải nhả tơ, nếu tằm ăn dâu mà nhả ra lá dâu thì sự tồn tại của tằm là vô ích.” Đảng Cộng sản Việt Nam có công giành độc lập như thế nào, lịch sử đã ghi nhận. Nhưng từ chủ nghĩa thực dân đến chủ nghĩa độc đảng toàn trị như hiện nay thì sự tồn tại của chế độ không khác gì lời nói của Trần Độ. Hơn 34 năm sau chiến tranh, người dân Việt Nam thật sự vẫn chưa được tự do, dân chủ, hạnh phúc và, đất nước vẫn chưa thoát khỏi cảnh nghèo khó. Hay chỉ có một thành phần lãnh đạo hưởng được những đặc quyền trên? Nhà nước Việt Nam đã không trung thực, không nhận thức sự yếu kém của mình và đã để cho số phận đất nước không mấy tốt đẹp trong các bản thống kê quốc tế.

Sự kiện vừa qua tôi cho rằng rõ ràng là sự đàn áp của một đảng này đối với một đảng khác. Đây không phải là cách hành xử của một nhà nước pháp quyền. Cụ thể hơn, một đảng viên Đảng Cộng sản không có quyền ép một đảng viên đảng khác từ bỏ đảng phái mình đang tham gia. Đây là ngoài thẩm quyền của cơ quan an ninh điều tra. Nhưng thực tế đó là những gì đã xảy ra vừa qua với tôi, với Nguyễn Tiếng Trung và các đảng viên khác trên đất nước Việt Nam.

Các cụ xưa thường nói “vàng thật không sợ lửa”. Nếu thật sự đất nước Việt Nam có dân chủ thì không cần phải “mở rộng dân chủ” như Bí thư Thành đoàn, Chủ tịch Hội Sinh viên TP Hà Nội Ngọ Duy Hiểu đã lên tiếng. Thêm nữa, nếu đã là những ý kiến thì dù trên cơ sở nào cũng chỉ đóng góp để xây dựng và chỉ ra sai trái của các lãnh đạo, không thể quy là “chống phá nhà nước.” Nhưng có chắc là các lãnh đạo Việt Nam cũng không “chống phá Nhà nước?” Vậy các ý kiến của Võ Nguyên Giáp trong thời gian gần đây nêu lên những sai trái và vi phạm nghiệm trọng trong vụ Tổng cục 2 và bauxite là vô tội? Những hành động trên của nhà nước rõ ràng là một thủ đoạn để quy tội các anh em dân chủ, và một hình thức cố tình phá vỡ phong trào dân chủ đang ngày lan mạnh tại Việt Nam. Những mục tiêu hoạt động của các anh em dân chủ từ lâu nay cũng chính là mục tiêu “xã hội công bằng văn minh dân chủ” của Đảng Cộng sản và Nhà nước. Nhà nước Việt Nam không nên phủ nhận những điều trên mà nên tạo cơ hội để thực hiện mục tiêu đó.

Niềm tin vẫn sáng

Đã đến lúc chúng ta cần phải suy nghĩ lại cụm từ ‘chết vì đất nước hay sống vì đất nước’. Nếu chết để đất nước thật sự có dân chủ, có chủ quyền dân tộc thì các anh em dân chủ sẵn sàng không ngại. Nhưng ngược lại, chết để một nhóm người được tự do khuynh lóat xã hội, đục khóet đất nước để nhân dân vẫn nghèo đói và “thấp có bé miệng” thì, hãy sống và sống bằng mọi cách để tiếp tục tranh đấu chính nghĩa cho dân tộc. Đã đến lúc nhà nước cần phải ngừng sự hy sinh vô nghĩa cúa các công dân trong nước để một thiểu số quyền lực bên trên lạm quyền trục lợi.

Tôi luôn tin rằng việc các chí hữu dân chủ “nhận tội, xin khoan hồng” để tồn tại và tiếp tục niềm tin là điều rất bình thường trong tình cảnh xã hội như Việt Nam hiện nay. Những cách đối xử kém văn minh của nhà nước mới thật sự không bình thường và đáng lo ngại. Nhà nước Việt Nam không nên tiếp tục tình trạng thiếu minh bạch trong cơ chế nhà nước và hãy thật sự thực hiện nhà nước pháp quyền. Những thanh niên trẻ như chúng tôi luôn luôn ngưỡng mộ cơ chế chính quyền trong sạch, nhà nước điều hành xã hội bằng pháp luật. Vì có được như thế mới đẩy lùi quốc nạn tham nhũng và lạm quyền. Tuổi trẻ chúng tôi muốn một nhà nước trung thực, trong sáng và không lừa dối.

Những niềm tin và ước mơ này vẫn cháy và sẽ sáng hơn nữa trong những ngày sắp tới ..

Võ Tấn Huân
Tennessee, 23.08.2009

August 30, 2009 Posted by | Bình luận, Chính trị, Diễn đàn | Leave a comment

Nhân hai vụ giáo xứ Tam Toà và chùa Bát Nhã: Một chế độ cộng hoà xã hội đen?

VietCatholic News (29 Aug 2009 01:11)

… Những vụ bạo hành của bọn đầu gấu sẽ chỉ có tác dụng đổ dầu vào lửa. ĐCSVN muốn thi hành chính sách khủng bố nhưng lại không có được một điều kiện nào trong những điều kiện cần có của một chính sách khủng bố. Nó chỉ đào huyệt tự chôn mình…”

… Họ hành xử như một tập thể riêng ở ngoài và ở trên dân tộc Việt Nam. Họ không do nhân dân bầu ra, họ là một lực lượng chiếm đóng. Họ không quan tâm tới lịch sử Việt Nam, họ có lịch sử Đảng. Họ không cần người Việt Nam đoàn kết, trái lại họ muốn người Việt Nam chia rẽ và thù ghét nhau để họ dễ thống trị. Đối với họ cái trở thành của nước Việt Nam không phải là điều quan trọng, điều quan trọng là họ vẫn cầm quyền.
…Đảng Cộng Sản muốn thi hành chính sách khủng bố nhưng lại không có được một điều kiện nào trong những điều kiện cần có của một chính sách khủng bố. Nó chỉ đào huyệt tự chôn mình…
Do di sản văn hóa và lịch sử, và có lẽ vì tâm trí đã bị chấn thương sau quá nhiều đảo lộn và thảm kịch, trí thức Việt Nam luôn luôn lượn quanh thay vì đương đầu với khó khăn. Họ cầu mong những cơ hội nhưng lại không biết rằng một cơ hội chỉ là một cơ hội với những ai đã chuẩn bị sẵn sàng để chờ đợi nó…

Việc chính quyền cộng sản đàn áp các tín đồ Công Giáo tại giáo xứ Tam Toà đã được thông tin và bình luận khá nhiều. Tuy nhiên có hai điểm cần được đặc biệt lưu ý.

Điểm thứ nhất là đảng cộng sản hoàn toàn không biểu lộ một sự hiểu biết hay quan tâm nào đối với lịch sử.

Nhà thờ Tam Toà tuy chỉ được xây cất một cách bề thế năm 1940 nhưng có giá trị lịch sử rất lớn đối với người công giáo. Tam Toà là một trong những họ đạo đầu tiên được thành lập tại Việt Nam, ngay từ đầu thế kỷ 17, và đã chứng kiến những trang sử bi đát nhất của Công Giáo Việt Nam: những đợt cấm đạo từ thời các chúa Nguyễn đến các triều vua Minh Mệnh và Tự Đức, những đợt tấn công của phong trào Cần Vương – Văn Thân và của một phần dân chúng các làng bên bị kích động. Máu người công giáo đã đổ nhiều, đã có những thánh tử đạo. Trong số giáo dân Tam Toà đầu tiên có những người đã được rửa tội bởi linh mục Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes), người đã có đóng góp văn hoá quan trọng nhất cho nước ta: Chữ Quốc Ngữ. Nỗi đau của người công giáo tại đây càng lớn khi năm 1954, sau hiệp định Genève, tất cả giáo dân, trừ một phụ nữ có chồng ngoại đạo, phải bỏ giáo xứ để di cư vào Nam, bỏ lại nhà thờ thân thương cùng tài sản và mồ mả tổ tiên của họ, vì biết không sống được dưới chế độ cộng sản trong một bối cảnh địa phương đầy thù ghét. Nhà thờ Tam Toà trở thành nhà kho và từ năm 1968 hoàn toàn hoang phế sau khi bị máy bay Mỹ ném bom phá hủy, chỉ còn lại mặt tiền.

Tam Toà là một phần lịch sử đau thương và một đất thiêng đối với người công giáo. Lòng tha thiết với đất cũ và nhà thờ cũ vẫn còn nguyên vẹn nên sau khi đất nước thống nhất giáo dân dần dần trở lại và giáo xứ Tam Toà ngày nay đã có gần một ngàn người. Nếu có những nơi nào trên đất nước Việt Nam mà cố gắng hoà giải dân tộc phải được thực hiện một cách nhiệt thành và quả quyết nhất thì Tam Toà là một, đặc biệt đối với Đảng Cộng Sản Việt Nam. Tại đây sau Cách Mạng Tháng 8 họ đã khủng bố người công giáo và kích thích tinh thần bài Công Giáo đến độ toàn bộ giáo dân phải bỏ vào Nam năm 1954. Những gì vừa xảy ra chứng tỏ họ hoàn toàn không không thay đổi và vẫn làm ngược hẳn với những gì đáng lẽ phải làm. Họ liên tục từ chối thỉnh cầu của giáo dân là được xây lại một nhà nguyện cạnh phế tích của nhà thờ Tam Toà cũ. viện cớ là phế tích này phải được giữ nguyên để làm chứng tích cho tội ác của Mỹ trong chiến tranh.

Đây chỉ là một lý cớ lỗ mãng bởi vì phế tích nhà thờ Tam Toà hoàn toàn không được bảo trì, nó bị bỏ hoang giữa một đám cỏ dại. Ngày 20-7 vừa qua khi giáo dân Tam Toà tập trung cầu nguyện trước nhà thờ cũ họ đã bị công an hành hung và giải tán một cách thô bạo. Ngày 26-7 khi họ lại đến đây cầu nguyện và vào giữa lúc 250.000 giáo dân giáo phận Vinh và hàng triệu giáo dân cả nước hướng về họ và cầu nguyện cho họ, sự thô bỉ của chính quyền cộng sản đã đạt một mức độ mới. Nhiều phân tử côn đồ được huy động tới để đánh đánh đập giáo dân, làm nhiều người bị thương trước sự chứng kiến của công an. Chiều hôm đó, một phái đoàn linh mục và giáo dân tới thăm tín hữu Tam Toà cũng bị bọn côn đồ này tấn công đả thương nhiều người, trong đó có linh mục Nguyễn Đình Phú. Phái đoàn phải bỏ chạy. Tệ hơn nữa là cách chính quyền đối xử với linh mục Ngô Thế Bính, đại diện toà tổng giám mục Vinh, khi ông tới trạm y tế thăm linh mục Nguyễn Đình Phú và các giáo dân bị đả thương. Linh mục Bính đã nhờ phó chủ tịch tỉnh Quảng Bình là Nguyễn Công Thuận dẫn vào vì trạm cứu thương đang bị hàng trăm người hung hăng mang gậy gộc bao quanh, nhưng Nguyễn Công Thuận đã dẫn linh mục Bính tới đó rồi bỏ đi ngay để cho bọn côn đồ xông thẳng vào trạm đánh ông Bính. Chẳng khác gì Thuận giao linh mục Bính cho bọn côn đồ.

Cần lưu ý là trong số hung thủ đánh đập giáo dân chỉ có một thiểu là bọn đầu gấu thực sự. Ở một vùng thôn quê trong tỉnh Quảng Bình nghèo nhất nước không thể có một số lượng đầu gấu chuyên nghiệp đông đảo như vậy; phần lớn là những người dân nông cạn đã được kích động để thù ghét người công giáo. Họ cũng đã được rỉ tai rằng người công giáo sắp kéo về đây để đòi đất của họ. Chế độ cộng sản đã đưa dân chúng địa phương trở lại giai đoạn đen tối hơn một thế kỷ trước khi người Việt Nam đã dại dột để bị xúi dục tàn sát đồng bào mình vì lý do tôn giáo. Phong trào Nho Giáo tôn quân Văn Thân – Cần Vương ra đời với chủ trương dữ dằn “Bình Tây Sát Tả” (chống Pháp, giết công giáo) đã sát tả hơn là bình tây, họ đã đánh phá hàng ngàn họ đạo, giết hại hàng chục ngàn giáo dân và để lại những đổ vỡ khó hàn gắn. Tuy vậy cho tới một ngày gần đây hành động của họ không bị lên án đúng mức, trái lại nói chung họ còn được tôn vinh như là hiện thân của chí khí dân tộc. Chính vì thế dù phong trào Văn Thân – Cần Vương đã tan rã nhanh chóng ảnh hưởng của nó vẫn còn kéo dài và tạo ra tại nhiều địa phương một số người thù ghét một cách dai dẳng đạo Công Giáo. Văn Thân và Cần Vương chủ yếu là những phong trào địa phương và giáo xứ Tam Toà nằm trong một trong những địa phương này.

Như tất cả những xung đột đẫm máu có nguyên nhân từ văn hoá, vấn đề cần được nhìn một cách bình tĩnh và thận trọng. Có những mù quáng phải bị lên án dứt khoát nhưng cũng có những hiểu lầm và vụng về. Và cũng có những hoàn cảnh đưa đến hiểu lầm và vụng về. Không phải tất cả mọi lãnh tụ Văn Thân và Cần Vương đều chủ trương “sát tả” nhưng họ đã không thuyết phục được phong trào. Ngược lại người Công Giáo khi bị tấn công đã tự vệ và cũng gây thương vong cho những người tấn công họ. Họ cũng đã ít nhiều phải nhờ đến sự che chở của người Pháp, sự kiện này lại càng tạo lý cớ cho những người cáo buộc họ là “theo Tây”, thậm chí cho rằng đạo Công Giáo được người Pháp đem vào Việt Nam làm dụng cụ xâm lược mặc dù nó đã có mặt tại Việt Nam ba thế kỷ trước và đã bị bách hại rất lâu trước khi Pháp bắt đầu dòm ngó Việt Nam. Các vua Minh Mệnh và Tự Đức khi ra chiếu cấm đạo cũng chỉ coi họ là theo một tà giáo chứ không hề buộc tội họ tiếp tay cho quân Pháp. Tuyệt đại đa số sĩ phu Việt Nam lúc đó chẳng biết gì về thế giới bên ngoài, các Văn Thân coi đạo Công Giáo như là đạo của chính quyền Pháp trong khi nước Pháp vừa trải qua cuộc cách mạng 1789 trong đó giáo hội Công Giáo đã bị đàn áp một cách đẫm máu trên cả nước và sau đó bị gặt hẳn khỏi chính quyền.

Việc các vua chúa Việt Nam cấm đạo và kêu gọi chống đạo có lý do của nó. Đó là vì đức tin Thiên Chúa Giáo phân biệt thượng đế và vua và do đó đe dọa nền tảng chính đáng của chế độ quân quyền theo đó vua cũng là trời. Đức tin này không hề xúc phạm đến dân tộc Việt Nam mà còn phải đưởc tán thành, đáng tiếc là một số giáo sĩ trong lúc truyền giáo đã bài xích những tín ngưỡng cổ truyền của Việt Nam như việc thờ cúng tổ tiên, thậm chí đôi khi ngay cả Phật Giáo, đóng góp tạo ra tâm lý bài Công Giáo trong quần chúng. Đã thế sau khi người Pháp áp đặt sự đô hộ Công Giáo lại được ưu đãi, càng gây bực bội cho nhiều người. Nhân và quả lẫn lộn với nhau tùy người nhìn, và trên hết là sự thiếu hiểu biết. Đố kỵ lương – giáo sau đó đã được khai thác cho những mục tiêu chính trị; một trong những thủ phạm chính là Đảng Cộng Sản.

Tình trạng phức tạp này có khi tạo ra những trường hợp rất nghịch lý. Phong trào Văn Thân – Cần Vương là một phong trào Nho Giáo, mà Nho Giáo bài xích Phật Giáo về bản chất, nhưng nhiều người phật giáo, kể cả một số tăng sĩ, cũng ủng hộ nó và coi sự thù ghét đạo Công Giáo như một lẽ tự nhiên, và tiếp tục nuôi dưỡng một tâm lý tồi tệ. Thích Trí Quang là một thí dụ. Ngược lại những hiềm khích mà họ đã là đối tượng cũng tạo ra nơi một số đáng kể người công giáo mặc cảm cô lập và tâm lý co cụm, tự coi mình là người công giáo trước khi là người Việt Nam. Hoá giải những xung khắc trong quá khứ và bình thường hoá chỗ đứng của người công giáo trong lòng dân tộc là một vấn đề còn đòi hỏi cố gắng và thời gian nhưng là điều phải làm đối với một chính quyền đúng nghĩa. Đảng cộng sản đã làm ngược lại. Họ đã kích thích sự thù ghét đối với người công giáo của một số người nông cạn, nạn nhân của sự tuyên truyền dối trá của chính họ, để dùng những người này tấn công giáo dân.

Chính sách trị an của đảng cộng sản rõ ràng là dựng thành phần dân tộc này chống lại thành phần dân tộc khác. Vụ chùa Bát Nhã trên Tây Nguyên cũng nằm trong cùng một chính sách, điều khác là ở đây một thành phần phật tử được điều động để chống lại một thành phần phật tử khác.

Giải quyết những vấn đề mà lịch sử để lại để đoàn kết người Việt Nam trong đồng thuận xây dựng và chia sẻ một tương lai chung không phải là quan tâm của đảng cộng sản. Họ hành xử như một tập thể riêng ở ngoài và ở trên dân tộc Việt Nam. Họ không do nhân dân bầu ra, họ là một lực lượng chiếm đóng. Họ không quan tâm tới lịch sử Việt Nam, họ có lịch sử Đảng. Họ không cần người Việt Nam đoàn kết, trái lại họ muốn người Việt Nam chia rẽ và thù ghét nhau để họ dễ thống trị. Đối với họ cái trở thành của nước Việt Nam không phải là điều quan trọng, điều quan trọng là họ vẫn cầm quyền.

Về bản chất đảng cộng sản không phải là một lực lượng dân tộc. Chủ nghĩa Mác- Lênin không có tổ quốc, nó chủ trương xoá bỏ các quốc gia – Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc còn hơn là thuộc Việt Nam Cộng Hoà vì Bắc Kinh là anh em, Sài Gòn là thù địch. Tiếng gọi đấu tranh giai cấp là tiếng gọi nội chiến, Lenin coi nội chiến là nền tảng của cách mạng vô sản. Tuy vậy những gì xảy ra tại Thái Hà, Tam Toà, Bảo Lộc, và chắc sẽ còn ở nhiều nơi khác nữa, vẫn làm người ta ngạc nhiên. Đảng cộng sản đã cầm quyền trên cả nước gần 35 năm rồi và chủ nghĩa cộng sản đã sụp đổ. Để tồn tại đáng lẽ nó phải cố gắng hoá thân thành một đảng dân tộc. Các cấp lãnh đạo cộng sản chắc chắn cũng phải hiểu như vậy. Nhưng tại sao họ làm ngược lại? Phải chăng họ cho rằng đã quá trễ để hoà với giải dân tộc Việt Nam và chọn lựa thực tiễn duy nhất chỉ là kéo dài chế độ thêm được ngày nào hay ngày đó bằng mọi phương tiện? Dã tâm đến từ tâm lý tuyệt vọng.

***
Điểm quan trọng thứ hai là hiện tượng đầu gấu hoá chính quyền.

Chế độ Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đang hoá thân thành một chế độ cộng hoà xã hội đen. Hiện tượng này bắt đầu trong vụ xử Nguyễn Vũ Bình cuối năm 2002. Hình như đó là lần đầu tiên chính quyền cộng sản sử dụng bọn đầu gấu để hành hung gia đình và thân hữu của một người đối lập. Ngay sau đó qua điện thoại ông Hoàng Minh Chính đã bày tỏ với tôi sự ngạc nhiên và phẫn nộ, nhiều người bị đánh, chính ông dù già cả cũng đã bị xô đẩy. Kế tiếp là những vụ hành hung lẻ tẻ đối với dân oan khiếu kiện. Biện pháp sử dụng bọn xã hội đen hành hung những người chống đối trở thành thông lệ từ năm 2005. Ông Hoàng Minh Chính bị đám “quần chúng phẫn nộ” xô đẩy, xỉ vả và ném đồ bẩn vào nhà khi ông trở lại Hà Nội sau chuyến đi Mỹ. Rồi Phạm Hồng Sơn bị đánh; rồi đến lượt Nguyễn Phương Anh, Phạm Văn Trội, Phạm Đức Chính, Ngô Quỳnh khi đến Hữu Lũng, Lạng Sơn, thăm Vi Đức Hồi. Sau đó là cô Phạm Thanh Nghiên ở Hải Phòng. Cùng một kịch bản: công an chứng kiến bọn côn đồ đánh người đối lập mà không can thiệp. Tuy vậy vẫn chỉ là những nhóm nhỏ trên dưới mười tên. Biện pháp trở thành qui mô từ năm 2008 với hàng trăm tên côn đồ được điều động đến khiêu khích và hành hung giáo dân cầu nguyện đòi lại đất ở xứ Thái Hà. Dù sao cũng vẫn chỉ có bọn lưu manh. Với vụ Tam Toà và chùa Bát Nhã một yếu tố mới xuất hiện: ngoài bọn đầu gấu chính quyền còn kích động một thành phần dân tộc chống lại một thành phần khác. Cần lưu ý là ngay cả báo chí nhà nước cũng được đầu gấu hoá để trắng trợn loan tin ngược hẳn với sự thực.

Thí dụ như báo Dân Trí loan tin:

“Sáng 27 Tháng Bảy khi nhân dân Ðồng Mỹ đang dọn dẹp vệ sinh quanh khu vực tháp chuông đã bị một nhóm đối tượng đi trên 5 xe ô tô bất ngờ dùng gạch đá ném rồi lên xe bỏ chạy”.

Những lần trước nhà cầm quyền cộng sản chỉ cho bọn đầu gấu hành hung rồi báo chí không loan tin, coi như không có gì xẩy ra. Lần này họ còn ra lệnh cho báo chí nhà nước loan tin dối trá. Việc sử dụng các băng đảng xã hội đen được nâng lên thành một chính sách phối hợp an ninh và tuyên truyền.

Phải nói ngay rằng việc sử dụng báo chí ở đây không chỉ thô bỉ mà còn là một sai lầm lớn. Ai cũng biết là bọn đầu gấu -đầu gấu chuyên nghiệp cũng như những thường dân nông cạn bị đầu gấu hoá- là một dụng cụ của chính quyền, nhưng ít ra chính quyền không nhìn nhận. Với sự yểm trợ của báo đảng chính quyền đã tự gỡ mặt nạ.

Nhưng chính sách trị an đầu gấu là gì? Nó là lời thú nhận không còn đối thoại được với nhân dân nữa vì không còn gì hợp lý để đề nghị nhưng cũng không thể dùng bạo lực chính thức. Chính quyền CSVN ngày nay đã khá lệ thuộc dư luận thế giới để có thể đem công an trắng trợn đàn áp những người dân đang cầu nguyện. Họ đã chọn giải pháp dùng bọn đầu gấu để ném đá giấu tay. Nhưng đây cũng chỉ là hành động tự sát. Nhân dân Việt Nam đã tức khắc nhìn ra bàn tay của Đảng và thế giới cũng đã nhận ra bàn tay của Đảng. Còn tệ hơn là dùng ngay công an. Thay vì bị lên án như một chính quyền hung bạo họ bị lên án như một chính quyền gian ác và đạo tặc. Chân dung của các vị lãnh đạo Đảng và Nhà Nước trước thế giới, đặc biệt là trong các chuyến công du, sẽ rất lộng lẫy!

Chính sách này sẽ đưa đảng cộng sản về đâu? Đừng quên rằng mọi chính quyền cộng sản đều đặt nền tảng trên khủng bố; khi không thể khủng bố nó sụp đổ. Robespierre, lý thuyết gia đầu tiên của chủ nghĩa khủng bố để lại một câu nói trứ danh: “hai cột trụ chính quyền cách mạng là đức hạnh và khủng bố, không có đức hạnh thì khủng bố chỉ là đen độc, không có khủng bố thì đức hạnh cũng bất lực”. Đức hạnh để được kính nể và không bị chống đối, khủng bố để tiêu diệt những chống đối còn lại. Lenin cũng đồng ý với Robespierre, ông chỉ thay thế cái đức hạnh lý tưởng và đam mê của Robespierre bằng cái “đạo đức cách mạng” bịa đặt và áp đặt của Đảng. Nhưng muốn như thế thì phải dập tắt mọi tiếng nói. Sự dối trá sẽ vô duyên và vô dụng nếu nó không có độc quyền. Mọi tiếng nói, trừ tiếng nói của Đảng, phải im bặt, mọi ý chí phải bị đập tan, mọi người đều phải là những thằng hèn. Sự khống chế tư tưởng phải tuyệt đối. Khống chế tư tưởng để triệt tiêu mọi ý định chống đối, đàn áp để tiêu diệt những chống đối còn lại. Bưng bít và bịt miệng là vũ khí cơ bản của các chế độ khủng bố cộng sản, phát xít và Nazi.

Và cũng có hai điều kiện bắt buộc để chính sách khủng bố có thể thành công. Một là một chính quyền chỉ có thể thi hành chính sách khủng bố đối với xã hội nếu cùng một lúc nó cũng thi hành khủng bố một cách dữ dội hơn ngay trong nội bộ. Đao phủ của các chế độ bạo ngược thường xuất phát từ trong lòng chế độ. Stalin đã hành quyết hơn 80% thành viên của ban chấp hành trung ương đã bầu ông vào chức tổng bí thư, Robespierre đã đưa lên máy chém gần hết thành viên của directoire. Hai là khủng bố phải thật dữ tợn để gây kinh hoàng, và phải thật giản đơn để mọi người đều thấy mình có thể là nạn nhân bất cứ lúc nào, và sống trong lo sợ. Giết lầm hơn tha lầm, khủng bố nửa vời là tự sát.

Tình trạng hiện nay của Đảng Cộng Sản Việt Nam là nó không còn khả năng bưng bít, cả nước và cả thế giới biết những gì xảy ra sau một vài giờ. Nó cũng không còn kỷ luật nội bộ và cũng không có hy vọng tìm ra một người lãnh đạo đủ uy tín để áp đặt một kỷ luật nội bộ tối thiểu, nói gì tới khủng bố nội bộ. Những bản án tù vài năm chẳng gây kinh hoàng cho ai, trừ những phần tử yếu bóng vía đàng nào cũng không phải là những người đối lập đáng lo ngại, mà chỉ kích thích sự chống đối. Những vụ bạo hành của bọn đầu gấu sẽ chỉ có tác dụng đổ dầu vào lửa. ĐCSVN muốn thi hành chính sách khủng bố nhưng lại không có được một điều kiện nào trong những điều kiện cần có của một chính sách khủng bố. Nó chỉ đào huyệt tự chôn mình. Và khi sự kiện Đảng đang đào hố chôn mình đã rõ rệt thì tự nhiên ngay trong nội bộ Đảng cũng sẽ có những người nhận ra là phải hành động để tự cứu mình. Phương pháp biện chứng, mà chủ nghĩa cộng sản lấy làm nền tảng của lý luận, cho rằng có một thời điểm mà lượng biến thành chất, mà những mâu thuẫn đã tích luỹ đủ để làm bùng ra một một thay đổi toàn bộ, tiếng Việt nói là tức nước vỡ bờ. Thời điểm này đã gần kề.

***
Nhưng gần kề là bao lâu? Ẩn số lớn nhất là trí thức Việt Nam. Quần chúng đã chín muồi cho một thay đổi chế độ. Nhưng quần chúng luôn luôn hành động theo trí thức, và trí thức Việt Nam lại có biệt tài làm lỡ các cơ hội. Do di sản văn hoá và lịch sử, và có lẽ vì tâm trí đã bị chấn thương sau quá nhiều đảo lộn và thảm kịch, trí thức Việt Nam luôn luôn lượn quanh thay vì đương đầu với khó khăn. Họ cầu mong những cơ hội nhưng lại không biết rằng một cơ hội chỉ là một cơ hội với những ai đã chuẩn bị sẵn sàng để chờ đợi nó. Và chuẩn bị có nghĩa là xây dựng tổ chức. Đấu tranh chính trị không bao giờ là đấu tranh cá nhân, nó luôn luôn là đấu tranh có tổ chức và tổ chức chỉ có thể là thành quả của những cố gắng thông minh và kiên trì trong nhiều năm, bắt đầu từ một tư tưởng chính trị hoàn chỉnh.

Cơ hội đã đến cuối thập 1970 khi đất nước suy sụp toàn diện và mọi người, kể cả đại bộ phận đảng viên cộng sản, vỡ mộng. Cơ hội lại đến cuối thập niên 1980 khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ và khối cộng sản tan vỡ. Chúng đều bị bỏ lỡ.

Ngày hôm nay cơ hội để thay đổi lịch sử lại đến. Thế giới khủng hoảng và phải thay đổi. Một trật tự thế giới mới, kinh tế cũng như chính trị, phải ra đời thay thế cho trật tự cũ đã từng nuôi dưỡng mô hình Trung Quốc mà Đảng Cộng Sản Việt Nam đã bắt chước và nhờ vậy đã sống sót. Các mâu thuẫn tích luỹ trong xã hội Việt Nam –tham nhũng, dân oan, tụt hậu, chênh lệch giàu nghèo- đã đến lúc phải giải quyết trong khi đảng cộng sản phân hoá và ung thối đến cùng độ. Đại hội 11 sẽ là đại hội của bế tắc toàn diện. Ban lãnh đạo xuất phát từ đại hội 11 sẽ chỉ gồm những con người mờ nhạt không thành tích, không uy tín, không khả năng và thiếu cả ý chí, lại phải giải quyết những vấn đề rất nghiêm trọng và cấp bách. Họ sẽ chẳng làm được gì và cũng chẳng lãnh đạo được ai. Vả lại đảng cộng sản không còn là một chính đảng. Nó đã trở thành một giai cấp bóc lột. Và một giai cấp không bao giờ là một đội ngũ để có sức chiến đấu ngay cả khi nó rất giàu và có thừa phương tiện. Bằng cớ là nó đang tự đầu gấu hoá để trở thành một băng đảng. Nhưng đặc tính của những băng đảng là chúng chỉ qui tụ được một số rất ít nguời. Đảng cộng sản sẽ vỡ ra thành nhiều băng đảng xâu xé lẫn nhau và các đảng viên lương thiện sẽ bỏ đi. Bối cảnh hiện nay và sắp tới sẽ rất thuận lợi cho cuộc vận động dân chủ.

Thuận lợi nhưng cũng rất khẩn trương vì chính sự sống còn của đất nước đang bị đe dọa. Một quốc gia chỉ tồn tại được nếu còn có những con người lo lắng cho sự trở thành của nó. Nhưng hiện nay còn có bao nhiêu người quan tâm đến đất nước? Sự thất vọng kéo dài quá lâu với một chính quyền tham bạo đã biến thành sự thất vọng với chính đất nước. Trong khi đó chúng ta đang sống trong một thế giới mà ý niệm quốc gia đang bị xét lại gay gắt. Những quốc gia không được quan niệm như một không gian liên đới của những con người tự do tự nguyện xây dựng và chia sẻ với nhau một tương lai chung sẽ không còn lý do tồn tại. Chúng sẽ giải thể trong lòng người trước khi giải thể thực sự. Phải khẩn cấp chấm dứt chế độ cộng sản trước khi nó chấm dứt đất nước.

(Nguồn: http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=4076) © Thông Luận 2009
Nguyễn Gia Kiểng

August 29, 2009 Posted by | Việt Cộng và tôn giáo | Leave a comment

Nguy cơ về một cuộc xâm lăng quân sự của TQ ở Trường Sa

Tri1ch VOA News

Trần Vinh Dự
26/08/2009
South China Sea
Mối lo ngại bắt nguồn từ các động thái khiêu khích ngày càng rõ ràng của Trung Quốc trên Biển Đông

Dư luận ở Việt Nam thời gian gần đây lo ngại về khả năng Trung Quốc sử dụng vũ lực cưỡng chiếm các đảo ở Trường Sa từ tay Việt Nam. Hồi giữa tháng 4 vừa rồi, báo Times cũng phản ánh vấn đề này qua bài “Ở Việt Nam: Những mối lo mới về sự xâm lược của Trung Quốc”. Những mối lo này là có thật, nhưng liệu chúng có cơ sở thực tế hay không? Và nếu có thì đến mức nào?

Mối lo ngại này bắt nguồn từ các động thái khiêu khích ngày càng rõ ràng của Trung Quốc trên Biển Đông. Kèm theo đó là các áp lực khác về kinh tế như sự xâm lăng và tràn ngập của hàng hóa giá rẻ từ Trung Quốc.

Gần đây nhất là chuyện người Trung Quốc khai thác quặng nhôm ở Tây Nguyên. Từ các áp lực này, người Việt cảm thấy đang bị lấn át và đe dọa.

Thế nhưng nhìn một cách khách quan thì Trung Quốc được lợi gì và mất gì nếu họ đánh chiếm các đảo Trường Sa của Việt Nam? Và vì thế, liệu Trung Quốc có muốn tiến hành một cuộc chiến tranh ở Trường Sa trong tương lai gần?

Với cán cân sức mạnh quân sự, đặc biệt là sức mạnh trên biển, quá trênh lệch như hiện nay, không ai có thể phủ nhận rằng nếu Trung Quốc đánh, họ sẽ chiếm được các đảo và bãi đá này. Vì thế, thôn tính và chiếm hữu là lợi ích đầu tiên.

Một chiến dịch quân sự trên biển chớp nhoáng và đạt được thành công toàn diện sẽ giúp thỏa mãn tinh thần dân tộc và khát vọng bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc. Vì thế, có thể củng cố tính chính danh của lãnh đạo Trung Quốc cũng như lòng tin của dân chúng vào nhóm này. Đây là lợi ích thứ hai.

Trong những trường hợp Trung Quốc cần củng cố lòng tin của dân chúng hoặc cần sử dụng chủ nghĩa dân tộc để thay đổi sự quan tâm tức thời của dư luận nội bộ thì đây là một lợi ích hết sức quan trọng.

Lợi ích thứ ba là thông qua việc kiểm soát các đảo và bãi đá ở Trường Sa, Trung Quốc có thêm bàn đạp vững chắc trong nỗ lực kiểm soát hoàn toàn Biển Đông bằng quân sự. Điều này đặc biệt quan trọng nếu Trung Quốc muốn đơn phương khai thác các nguồn tài nguyên dầu khí dưới đáy biển và không muốn các nước láng giềng tranh phần.

Vì thế, khi giá trị các nguồn tài nguyên này càng lớn (thí dụ do giá dầu thế giới tăng quá cao, hoặc phát hiện ra các trữ lượng lớn dầu trong khu vực này), thì lợi ích này càng nổi bật.

Thứ tư là một thắng lợi chóng vánh sẽ đưa uy tín về quân sự của Trung Quốc lên cao hơn, giúp xây dựng vị thế bá chủ về quân sự của nước này trên thế giới. Đồng thời, nó cũng mang tính răn đe đối với các nước láng giềng khác đang có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc.

Tuy nhiên, thiệt hại đối với Trung Quốc cũng không nhỏ.

Thứ nhất là về dài hạn, cuộc xâm lược này không thể giúp Trung Quốc chiếm giữ hợp pháp Biển Đông. Lý do là nếu Việt Nam vẫn còn tồn tại với tư cách là một nước thì Việt Nam vẫn sẽ tiếp tục đấu tranh và vì thế vùng biển này vẫn luôn trong tình trạng bị tranh chấp.

Mặt khác, ngay cả khi các đảo và bãi đá này được công nhận về mặt pháp lý là thuộc về Trung Quốc thì việc có thể sử dụng chúng để đòi các vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa mở rộng hay không cũng vẫn là một vấn đề gây tranh cãi.

Thứ hai là nguy cơ phát triển thành chiến tranh toàn diện (trên biển và trên bộ). Nguy cơ về một cuộc chiến tranh biên giới trên bộ với Việt Nam là có. Việc Việt Nam không trả đũa Trung Quốc trên bộ hồi năm 1988 có lẽ sẽ là bằng chứng rằng nguy cơ nổ ra chiến tranh toàn diện sẽ không cao.

Tuy nhiên, nếu như vào năm 1988 rất ít người Việt biết về cuộc xâm lăng này thì hiện nay với khả năng thông tin nhanh nhạy, dư luận trong nước chắc chắn sẽ gây sức ép lớn đối với lãnh đạo Việt Nam theo hướng phát động một cuộc chiến trả đũa trên bộ.

Truong Sa Hoang Sa

Một cuộc chiến tranh biên giới có lẽ sẽ không dẫn tới bất kỳ thắng lợi quân sự đáng kể nào cho Việt Nam. Tuy thế, nó sẽ gây bất ổn và làm tê liệt các hoạt động kinh tế của các tỉnh phía nam của Trung Quốc giáp danh với Việt Nam. Đồng thời nó cũng buộc Trung Quốc phải tiêu tốn một nguồn lực đáng kể về sinh mạng, khí tài và của cải vào một cuộc chiến như vậy. Đây có lẽ là điều Trung Quốc chưa muốn trong ngắn hạn.

Thứ ba là nó không giải quyết triệt để vấn đề đảo và bãi đá trên Biển Đông trừ khi Trung Quốc tiếp tục đánh chiếm các đảo và bãi đá của Phillipines và Malaysia trong khu vực này. Nguy cơ về khả năng Trung Quốc đánh chiếm nốt các đảo còn lại ở Trường Sa sẽ đẩy các nước này vào thế cụm lại với nhau để chống lại Trung Quốc.

Thứ tư là nó làm nóng lên mối lo ngại của tất cả các nước láng giềng của Trung Quốc, kể cả Đài Loan. Trung Quốc không chỉ có tranh chấp lãnh thổ và lãnh hải với Việt Nam, mà còn với hàng loạt các quốc gia khác như Phillipines, Malaysia, Đài Loan, Nhật Bản, Ấn Độ. Nguy cơ về một cuộc chiến tiềm tàng với Trung Quốc hiếu chiến có thể châm ngòi cho một cuộc chạy đua vũ trang mới giữa Trung Quốc với các nước láng giềng.

Thứ năm là nó làm gián đoạn hoạt động thương mại quốc tế. Tàu bè khoa lại trong khu vực này sẽ phải tìm các tuyến đường khác an toàn hơn, và vì thế tốn kém hơn về cả tiền bạc và thời gian. Ảnh hưởng của sự gián đoạn này tới kinh tế thế giới như thế nào là một dấu hỏi lớn. Trong ngắn hạn, nó sẽ làm sâu sắc thêm cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ đang chỉ mới có một số chỉ dấu hồi phục mong manh.

Cuối cùng, việc duy trì quyền kiểm soát liên tục đối với lãnh hải trong đường chữ U bằng biện pháp quân sự là hết sức tốn kém. Mặc dù Việt Nam mất đảo, nhưng không có nghĩa là Việt Nam không thể tiến hành các cuộc tấn công mang tính quấy rối và làm gián đoạn các hoạt động kinh tế trên biển của Trung Quốc trong khu vực này.

Tóm lại, nếu Trung Quốc đánh, họ sẽ chiếm được các đảo và bãi đá ở Trường Sa từ tay Việt Nam. Trung Quốc sẽ đạt được một số lợi ích nhất định từ một cuộc xâm lược như vậy. Tuy nhiên, các tổn thất mà họ phải gánh chịu là không nhỏ. Tựu trung lại, nguy cơ về một cuộc xâm lăng quân sự trên biển là có, nhưng không lớn, đối với Việt Nam.

Vì vậy, có lẽ Việt Nam không nên thổi phồng nguy cơ này khi định hướng chính sách quốc phòng và ngoại giao. Đương nhiên điều này không có nghĩa Việt Nam không nên từng bước xây dựng khả năng phòng vệ trên biển để đón đầu một cuộc chiến tranh có thể có trên biển.

August 27, 2009 Posted by | Trung Cộng và Biển Đông | Leave a comment

Phan Xuân Sinh: 41 năm sau, Mỹ Lai và Mậu Thân

Trích NguoiViet Boston

Ngày 22/8/2009 trên website của BBC có bản tin mới nhất về vụ Mỹ Lai, Quảng Ngãi: Thiếu úy William Calley, chỉ huy một trung đội lính Mỹ hành quân vào Mỹ Lai trong thời kỳ chiến tranh leo thang 1968, ra lệnh sát hại hơn 500 thường dân Việt Nam. Trong một cuộc họp mặt tại câu lạc bộ Kiwanis Club tại Columus, Georgia, USA, theo BBC thuật lại, báo Columbus Ledger-Enquirer số ra tại Mỹ trích lời thiếu úy William Calley: “Mỗi ngày qua đi tôi cảm thấy hối hận với những gì đã xảy ra.”

Vụ thảm sát Mỹ Lai, Quảng Ngãi, 1968
Câu chuyện thương tâm xảy ra ngày 16 tháng Ba năm 1968, mọi người Việt Nam và cả thế giới phải sững sờ trước hành động dã man của một đơn vị tác chiến của quân đội Mỹ, được mệnh danh là văn minh mà hành xử một cách tàn nhẫn, phi nhân như vậy đối với người dân trong tay không có một tấc sắt. Khi sự việc khi xảy ra chỉ có một ít người biết tới. Nhưng đến năm 1971, khi các đài BBC, VOA… tường thuật đầy đủ trong phiên tòa xử chung thân William Calley thì tin này lan tràn khắp thế giới. Tôi còn nhớ hồi đó chúng tôi, những sĩ quan còn rất trẻ của quân đội miền Nam, nghe được tin này đã hết sức phẫn nộ, muốn tống cổ bọn Mỹ này đi cho rồi. Tự ái dân tộc làm cho tụi tôi điên tiết và lúc đó trong thâm tâm chúng tôi cũng có tâm trạng bài Mỹ.

Sau những lần hành quân vào những làng mạc dưới sự kiểm soát của quân Giải phóng, đơn vị chúng tôi cũng bị bắn từ trong làng ra, bị thương và thiệt mạng cũng có. Thế nhưng khi tiến vào làng, không thấy một đơn vị du kích hay chính quy nào cả, chỉ thấy đàn bà, ông bà già, trẻ con, hỏi người dân ở đó thì họ làm bộ lơ ngơ không biết gì. Tức cành hông nhưng không biết phải làm cách nào. Những người bộ đội bên kia được dân che chở và giấu kín, thế nhưng khi mình lầm lỡ bắn trả lại, chẳng may chết dân chúng, thì xem như thằng sĩ quan chỉ huy tàn đời. Cho nên không thằng nào dại gì lãnh cái búa vào đầu. Một cuộc chiến không có “mặt trận” để thư hùng cao thấp. Họ núp vào dân chúng, được sự che chở của dân nên họ chiến thắng là lẽ tất nhiên, không chối cãi được. Nên khi nghe tin về Mỹ Lai, tụi tôi cũng đoán rằng trò chơi này áp dụng với tụi tôi thì được, nhưng với thằng cha William Calley thì hắn như con chó điên cắn nát, tới đâu thì tới.

Sau 41 năm “Vụ thảm sát Mỹ Lai”, thiếu úy William Calley, từng là trung đội trưởng khi đi lính sang Việt Nam nói: “Tôi hối hận với những người Việt Nam bị giết hại, với gia đình của họ, với những người lính Mỹ tham chiến, và gia đình của họ. Tôi rất xin lỗi.” Lời nói của ông, ta chấp nhận hay không thì mọi việc cũng đã rồi, người dân Mỹ Lai cũng không thể sống lại. Tuy nhiên vẫn khen ông một câu là: “người có giáo dục”, ít ra cũng biết ôm cái ân hận suốt đời, biết việc làm của mình gây tang tóc đau thương cho biết bao nhiêu gia đình, gây tiếng xấu xa cho đồng đội. Di hại của ông trong lịch sử chiến tranh không tha thứ được.

Vụ thảm sát Mậu Thân, Huế 1968
Cũng cùng thời điểm này sau 41 năm (cũng từ 1968), “Vụ thảm sát Tết Mậu Thân tại Huế”, trong đó không phải là người ngoại quốc giết hàng ngàn dân vô tội ở Huế, mà chính là những anh em mình sát hại dân mình, thì không có một lời chính thức xin lỗi trước quốc dân. Chúng ta mở miệng ra là học đạo đức theo gương… “Người”, đạo đức cách mạng v.v… mà trước khi có những đạo đức gì đó xuất hiện, thì trước hết chúng ta phải có đạo đức làm người, mà đạo đức làm người không cho phép chúng ta yên lặng trước những lỗi lầm tày trời mà mình đã thực hiện mà không có một lời xin lỗi, nói lên sự hối hận, sự đáng tiếc. Có những người có chức, có quyền thời đó đã ra lệnh cho thuộc cấp trong vụ Mậu Thân, bây giờ sống phây phây, mỗi năm ăn mừng chiến thắng. Nghĩ cũng lạ thật.

Đứng trước hai sự việc “Mỹ Lai” và “Mậu Thân”, ta thấy mức độ trầm trọng khác nhau. Một bên thì lãnh mỗi người một viên đạn, chết tại chỗ. Còn một bên thì chính mình đào mồ cho mình, lãnh mỗi người một cán cuốc vào đầu. Sống, chết, ngất ngư đều thảy xuống hố, lấp đất lại. Tưởng tượng thôi chúng ta đã thấy rợn người, huống chi đây là sự thật. Không có thằng Tây, thằng Mỹ nào ở đây, mà anh em mình cả đấy thôi. Trong chuyện này, đụng tới anh em mình, sao tôi thấy líu lưỡi. Chơi chi trò giết người mệt nhọc của thời Trung cổ như vậy, không cho mỗi người một viên đạn như thằng cha William Calley cho bớt đau đớn thân xác người anh em mình. Té ra thằng Mỹ nó cũng còn có một chút xíu nhân bản.

“Ông phá vỡ sự im lặng sau khi nhận lời một người bạn đến phát biểu tại cuộc họp hàng tuần của một nhóm dân tại Câu lạc bộ Kiwanis Club, tổ chức tình nguyện hải ngoại của Hoa Kỳ.

Thời điểm xảy ra vụ thảm sát, người lính Mỹ đang thực hiện chiến dịch “tìm và diệt” nhằm loại trừ chiến đấu quân đối phương tại vùng được cho là có cảm tình với Việt Cộng.

Không tìm được kẻ thù, lính Mỹ thuộc Đại đội Charlie tập hợp dân làng và xả súng bắn họ.

Một năm sau khi tin Mỹ Lai xuất hiện trên báo Mỹ, vụ thảm sát đã làm giảm uy tín của quân đội Mỹ.

Nó trở thành bước ngoặt trong sự thay đổi của dư luận Mỹ về cuộc chiến Việt Nam.”

Con người ta đến một lúc nào đó phải nhìn nhận sự lầm lỗi. William Calley cũng vậy, 41 năm lúc nào cũng cảm thấy lương tâm mình cắn rứt, hối hận giày vò. Ông không còn chịu đựng được nữa, phải lên tiếng xin lỗi, để cho lòng mình dù không được thanh thản thì ít nhất cũng để cho mọi người biết rằng mình còn một chút tình người sót lại. Biết đau cái đau của những nạn nhân do mình gây ra, biết xấu hổ việc làm vô ý thức của mình, biết nói lên cho mọi người biết “mình là con người” để mọi người có thể xích lại gần hơn, còn trước đây người ta ghê tởm xa lánh.

Tha thứ cho ông hay không là do quyết định của mọi người, thế nhưng dù sao đi nữa William Calley cũng cho ta biết ông còn can đảm thốt lên tiếng kêu cầu cứu trung thực của lòng mình. Đó là lời “xin lỗi”.

22/8/2009

© 2009 Phan Xuân Sinh
© 2009 talawas blog

August 26, 2009 Posted by | Chính trị | Leave a comment

Người Tranh Đấu Chống Cộng Đang Rơi Vào Bẫy Của CSVN .

Trích Vietland


Trong thời gian gần đây đảng CSVN đã thành công trong công việc tìm cách đánh lạc hướng hành động bán nước cho Trung Quốc . Dự án Bô Xít trước đây đang là đề tài nóng bỏng, mọi người đang chú ý làm cho Nguyễn Tấn Dũng bối rối , đưa đảng CSVN vào sự khó xử khi các nhà Khoa Học Gia VN lên tiếng chống đối .

Đảng CSVN bỗng dưng đánh đập những giáo dân Tam Tòa tạo lên một nguồn dư luận mới làm mọi người quên ngay chuyện Bô Xít qua những hình ảnh Hằng Trăm Nghìn giáo dân cầu nguyện . Tin tức trong các báo chí, trên mạng đã chuyển hết qua nguồn tin Tam Tòa . Trong tuần lễ vừa qua Tin Tam Tòa tạm thời lắng xuống vì tỉnh Quảng Bình đã dùng xe ủi đất để làm công viên trong khu vực nhà thờ Tam Tòa , các giáo dân bị bắt đã được thả ra và những cuộc cầu nguyện của giáo dân ở giáo xứ Vinh cũng bớt dần, không còn những buổi lễ qui tụ hằng trăm nghìn người nữa .

Thấy vụ Tam Tòa đang bị chìm xuồng, đảng CSVN lại xuất chiêu mới, đưa ra video sự đầu thú của 4 “nhà dân chủ” nhận tội xin nhà nước khoan hồng . Lần nữa các tin tức của người chống cộng rơi vào mục tiêu nầy . Những “nhà dân chủ” tự thú nầy có là những nhà dân chủ thực sự hay không thì chúng ta chưa bàn tới vì CSVN có thể cấy những con bài dân chủ giả để sau nầy tự thú, nhận tội để làm giảm đi tinh thần và lý tưởng của phong trào dân chủ .

May mắn cho chúng ta có những nhà Dân Chủ thực thụ dũng cảm, bất khuất như Nguyễn Văn Lý, Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Đài nên âm mưu phá thối phong trào tranh đấu dân chủ của CSVN vô giá trị .

Khi đang tranh đấu cho một việc ý nghĩa là chống sự xâm lăng của Trung Quốc qua sự xâm nhập các dự án Bô Xít đang được hầu hết các nhà trí thức trong và ngoài nước quan tâm, lên tiếng . Việc người dân trong và ngoài nước của các nhà trí thức chống lại chủ trương bán nước cua đảng CSVN qua dự án Bô Xít đã làm cho Nguyễn Tấn Dũng phải tức tối ra nghị quyết “cấm phổ biến thông tin phản biện” . Phong trào chống Bô Xít đang lớn mạnh thì chuyện Tam Tòa xảy ra bất ngờ làm cho chuyền xuồng sự tranh đấu nầy .

Nhiều người nức lòng vì nhìn thấy những bản tin tranh đấu của giáo dân, những hình ảnh hằng trăm nghìn người cầu nguyện đã có những hy vọng biết đâu sẽ có một cuộc nỗi dậy của toàn dân . Qua một góp ý của thành viên Vietland mà tôi đọc được như sau “người Công Giáo rất hiền hòa, họ không tranh đấu để lật đổ CSVN mà họ chỉ tranh đấu đòi lại đất” Nếu đảng CSVN thấy khó xử, họ chỉ cần trả đất nhà thờ lại cho giáo dân thì mọi chuyện sẽ chìm xuồng” .

Vậy thì chúng ta biết những sự cầu nguyện của giáo dân cũng chỉ thuần là sự tranh đấu đòi lại đất nhà thờ chứ không phải là một sự nổi dậy của toàn dân vì bất mãn chế độ như những cuộc xuống đường của các phong trào cách mạng Châu Âu năm 1989-91 . Những hy vọng là giáo dân công giáo nổi dậy để thay đổi chính trị là chuyện bất khả thi, hầu như không thể xảy ra . Vậy chuyện bàn tán 4 “nhà Dân Chủ” nhận tội rùm beng trên báo chí thông tin cũng chẳng có lợi gì vì đây là sự sắp xếp của đảng CSVN muốn lái sự bất mãn đảng CSVN qua Bô Xít và những sự tranh chấp biển Đông sang hướng khác .

Khi chúng tôi vào các phòng tranh đấu của người VN trên Paltalk và Yahoo chat room thì mọi người vẫn còn đang say sưa bàn tán vụTam Tòa và chuyện 4 nhà “dân chủ” nhận tội .

Chúng ta nghĩ gì khi mũi tiến công tranh đấu của chúng ta chống lại sự xâm lăng của Trung Quốc và tội ác đảng CSVN qua vụ Bô Xít đã bị lái sang hướng khác . Ai cũng nhớ trước đây, TT Bill Clinton khi đang bị báo chí phanh phui vụ ông dan díu với cô thư ký Lewinsky thì sau đó vài ngày ông ta đã ra lệnh cho máy bay Mỹ đánh bom một trại huấn luyện của Taliban ở Afghanistan để đánh lạc nguồn tin . Cựu TT Clinton đã thành công vì lúc đó, báo chí lại chuyển hướng sang nơi khác mà trước đó vài ngày còn đang nhắm vào chuyện bê bối của ông.

Đấu tranh với CSVN chúng ta cần sáng suốt, cần nhận định cẩn thận và nhất là không thể bị CS đánh lừa mình sang hướng khác .

Thanh Hương (Cam Bốt)
Vietland Staff

August 25, 2009 Posted by | Bình luận, Chính trị | Leave a comment

Độ tin cậy nào có thể đo nơi Nguyễn Tấn Dũng?

VietCatholic News (23 Aug 2009 02:12)
Ngày 18/8/2009 báo chí đưa tin rầm rộ về cuộc thăm viếng của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến Tây Nguyên để thị sát tận mắt các công trình khai thác mỏ Bauxite do công nhân Tàu thi công.

Nguyễn tấn Dũng thị sát Tây Nguyên

Bản tin này chỉ được tải đi theo đúng đường thẳng từ một “cổng phải“ duy nhất là “Theo Cổng TTĐT Chính phủ“, hơn 700 tờ báo với một công bộc Tổng biên tập cúi gập đầu sao chép bản chính vào cho các trang báo riêng của mình.

Tại Tây Nguyên ông Dũng tâng bốc Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam lên tận mây xanh: “quyết tâm triển khai dự án này vừa đạt hiệu quả kinh tế – xã hội cao, vừa là dự án mẫu về bảo vệ môi trường sinh thái.“

Ông cũng biết cách ru ngủ quần chúng: “Lâm Đồng cần phát huy tiềm năng, lợi thế về điều kiện khí hậu tự nhiên, tài nguyên đất rừng, đất nông nghiệp, khoáng sản để phát triển mạnh mẽ nông lâm nghiệp, thủy sản, du lịch, dịch vụ, công nghiệp chế biến tài nguyên khoáng sản”.

Một viễn tưởng giàu sang trong mộng như các phim đang trình chiếu tại các quốc gia tiên tiến, ông Dũng hứng quá đề nghị: với lợi thế về khí hậu ôn đới, điều kiện thiên nhiên, Lâm Đồng cần tập trung đưa du lịch, dịch vụ trở thành một trong những mũi nhọn phát triển của Lâm Đồng, “Cần xây dựng khách sạn cao cấp để thu hút khách du lịch trong và ngoài nước”.

Ngược lại, chỉ vài phút sau ông ta phải trở lại thực tế “nước ta còn rất nghèo“ để đáp xuống ngay vũng bùn lầy đất đỏ Bauxite khi kêu gọi tỉnh Lâm Đồng chú trọng phát triển nông, lâm thủy sản, đẩy mạnh thâm canh rau, hoa cao cấp, các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao, quản lý, sử dụng và phát triển mạnh hơn nữa kinh tế rừng.

Ai đang theo dõi về Tây Nguyên đều bức xúc về 2 khía cạnh chính trị và môi trường: các độc hại về chất thải nhôm Aluminium trong quá trình khai thác và đoạn xương sống quan trọng của con rồng VN đang bị giặc phương Bắc đè lên. Một trang báo điện tử nghiên cứu về Bauxite (http://bauxitevietnam.info) được các học giả khoa học và chuyên gia trong nước thành lập như một cơ quan độc lập tìm hiểu về Tây Nguyên, nơi đây đang được tiếp tay của mọi tầng lớp tại hải ngoại và lan rộng trong nước và cũng là nơi tập trung duy nhất các tiếng nói phản biện nhiều mặt của người trí thức về vấn đề Bauxite Việt Nam.

Ai đang biết chút ít về vấn đề Bauxite đều hoảng sợ về độ tin cậy nơi Nguyễn Tấn Dũng khi nghe ông nói: “Dự án bô-xít Lâm Đồng phải là mẫu về bảo vệ môi trường sinh thái.“

Để có tầm nhìn xa và rộng người đọc có thể theo dõi nhiều luận đề về Bauxite nơi trang http://bauxitevietnam.info

Nhìn từ Tây Nguyên chúng ta đưa ra vài thí dụ đăng tải từ báo chí quốc nội đến quốc tế để so sánh những sự việc đang xảy ra xung quanh cuộc sống nơi ta và nơi Tàu.

Ngộ độc đồ ăn đồ dùng từ Trung quốc

– Thị trấn Tàu ‘sục sôi’ vì nhiễm độc chì do nhà máy nấu kim loại gây ra tại Thiểm Tây: Theo bản tin của AP ngày 18/8/2009 có tới 731 em nhỏ ở 2 ngôi làng gần nhà máy có kết quả kiểm tra dương tính với nhiễm độc chì. Một số mẫu thử có mức nhiễm chì cao gấp 10 lần chuẩn an toàn của Tàu. Nay người ta khám phá thêm 1.300 trẻ em nhiễm bệnh độc chì vào ngày 22/8. Một nông dân chỉ tay vào nhà máy nghiến răng thù hận: “Nó giống như một quả bom nguyên tử với chúng tôi. Không có có gì cứu sống chúng tôi cả”. Nhiễm độc chì có thể gây ra những tổn hại nghiêm trọng với thần kinh và cơ quan sinh sản, làm tăng huyết áp, gây ra chứng thiếu máu, mất trí nhớ, và nặng nhất là nạn nhân có thể bị hôn mê rồi tử vong. Nó đặc biệt nguy hại với trẻ em, phụ nữ có thai và thai nhi.

Làn sóng căm thù càng dâng cao sau khi một nữ sinh uống thuốc trừ sâu để tự tử hôm 16/8 vì cha mẹ không cho em đi làm xét nghiệm máu. Lòng uẫn ức đã làm cho hàng trăm người dân ở tỉnh Thiểm Tây, tây bắc Trung Quốc, hôm 17/8, đã tấn công nhà máy luyện kim loại Dongling ở địa phương. Người dân phản đối kéo đổ hàng rào và đập phá các xe tải chở than tại nhà máy. Tân Hoa xã cho biết, khoảng 100 cảnh sát đã được điều tới nhà máy Dongling ở thành phố Baoji để đảm bảo trật tự.

Sự mất lòng tin ở người dân càng thêm trầm trọng trong những năm qua vì sự thiếu minh bạch và “hứa suông” từ chính quyền trung ương đến địa phương tại Tàu.

– Từ chỗ nhiễm chì này người dân lại nghĩ đến hậu quả Melamine khủng khiếp trong sữa bột tại Tàu: Khi được báo chí khui ra vụ việc sữa bột trẻ em nhiễm hóa chất công nghiệp Melamine vào tháng 7/2007 thì đã gây tử vong đối với ít nhất 6 trẻ em và khiến gần 300.000 em khác bị sỏi thận cũng như nhiều vấn đề sức khỏe khác. Như một cơn sóng thần về Melamine thổi đến làm cho hơn một tỷ dân Tàu hoang mang sợ hãi, cả thế giới cũng bị lây lan nhanh chóng vào vụ sữa độc khi hóa chất này được phát hiện trong nhiều mặt hàng thực phẩm khác liên quan tới sữa hoặc Chocolate sản xuất ra từ Tàu. Hàng chục quốc gia trên thế giới phải thu hồi hoặc dỡ bỏ các sản phẩm sữa của Tàu ra khỏi kệ hàng. Các cuộc kiểm tra sau đó còn phát hiện Melamine được trộn vào thức ăn gia súc.

Các cuộc điều tra tại Tàu cho thấy những thương gia gian manh thu gom sữa để bán lại cho các công ty sữa đã pha loãng sữa nguyên liệu, sau đó gian xảo trộn Melamine vào để làm tăng giả tạo hàm lượng protein lên cao vì đây là một hóa chất giàu Ni-tơ, chất vốn được dùng để đánh giá cao hàm lượng protein trong nhiều cuộc kiểm tra hàng ngày. Tòa án thành phố Thạch Gia Trang, tỉnh Hà Bắc đã tuyên án tử hình đối với 3 bị cáo trong vụ xìcăngđan sữa trộn Melamine.

22 công ty sữa Tàu trả 160 triệu USD tiền bồi thường cho những gia đình có con em tử vong hoặc bị ốm do uống sữa nhiễm hóa chất.

Một lần nữa, hồi chuông cảnh báo về chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm lại được gióng lên ở quốc gia cộng sản đông dân nhất thế giới này.

– Trở về Việt Nam với bản tin gần 100 người bao vây nhà máy xả khí thải trong đêm 19/8/2009: Người dân tổ 43, phường Vĩnh Tuy (Hà Nội) đẩy cổng xông vào, yêu cầu Công ty cổ phần dệt 10-10 ngừng đốt khí thải có mùi khét, khó thở. Cảnh sát đã được huy động để giải tán trật tự. Sự việc bắt đầu từ 17h30 khi lò đốt hóa chất của Công ty cổ phần dệt 10-10 hoạt động. Khói đen kèm mùi khét lẹt bủa vây toàn bộ khu vực dân cư tổ 43 như một lớp sương mù. Gần trăm người dân gồm cả trẻ nhỏ và người già đứng kín trong khuôn viên công ty yêu cầu ngừng đốt hóa chất. Chị Nguyễn Thị Kim Hoa cho biết: “Người dân đã có ý kiến với công ty nhiều lần nhưng hôm nay họ đốt nhiều quá, mùi nồng nặc, rát cổ họng, trẻ con ho sặc sụa khiến chúng tôi phải tụ tập yêu cầu công ty ngừng hoạt động”. Ông Đỗ Thanh Phong cho biết, cách đây 10 năm, trước tình trạng ô nhiễm không khí trầm trọng do việc xả khí thải của công ty. Ông đã làm đơn với 40 chữ ký của người dân gửi cơ quan chức năng thành phố yêu cầu giúp đỡ. Sau khi có đoàn kiểm tra thì công ty ngừng được một thời gian sau đó lại đốt trở lại.

Bà Lê Thị Tân, Bí thư Đảng ủy phường Vĩnh Tuy cho biết, mới đây khi kiểm tra, Phòng tài nguyên môi trường quận Hai Bà Trưng, UBND phường đã buộc Công ty cổ phần dệt 10-10 phải di dời một số phân xưởng quá ô nhiễm ra ngoài. Bà Tân nói, việc ô nhiễm ở ngành dệt là không tránh khỏi, không riêng gì Công ty cổ phần dệt 10-10 mà nhiều công ty khác cũng vậy. Do đó, giải pháp căn bản là phải di dời. “Việc di dời thành phố đã có chủ trương còn bao giờ tiến hành thì phường không thể nắm được”, bà bí thư phường bộc lộ.

– 2 con đập lớn bị vỡ toác chỉ sau một con nước vào ngày 21/08/2009: Cách đây hơn 2 tháng, người dân xã Tráng Việt và xã Văn Khê (thuộc huyện Mê Linh – Hà Nội) khấp khởi mừng khi nhìn thấy hai con đập bằng bê-tông uốn lượn đẹp như tranh dẫn từ trong thôn ra bãi mầu ngoài sông Hồng, thay thế cho con đường đất nhỏ trước kia. Nhưng chỉ sau một con nước đầu tiên, phần ta-luy bên trái hai con đập bỗng sụt lún, vỡ toang hoác từng mảng. Điều đáng nói là cả hai con đập trị giá ngót nghét 10 tỷ đồng này mới chỉ đưa vào sử dụng được hơn tháng.

Đường vào Hà Nội bụi mịt mùng

– Bao giờ dân hết khổ với tuyến đường… khổ ải ? (18/08/2009): Các xe ôtô tải chở vật liệu xây dựng ngày đêm “băm nát” đường Tân Xuân. Mặc cho người dân kêu, nhiều năm qua, con đường này trở thành nỗi ám ảnh đến sức khỏe và sinh hoạt thường nhật của hàng vạn người dân địa phương. Đất, cát, sỏi, ximăng tươi rơi từ các xe ôtô chở vật liệu xây dựng xuống mặt đường rồi theo gió bay mù mịt, ập thẳng vào mặt người qua đường, là hình ảnh của “tuyến đường khổ ải” từ cuối đường An Dương Vương (quận Tây Hồ) đến khu vực gầm cầu Thăng Long, kéo ra đường Đông Ngạc, Tân Xuân (huyện Từ Liêm). Cách cửa khẩu Đông Ngạc khoảng 500m, bà Phạm Thị Thảo, một người dân cư trú tại đường Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, cặm cụi với quán nước nhỏ trước cửa nhà. Chiếc khẩu trang che kín gần nửa khuôn mặt bà. Bàn nước được che chắn bằng tấm nilông mỏng, mấy chiếc ghế nhựa nằm lăn lóc, bụi bám trắng. Bà Thảo cho biết: “Bụi không chỉ thốc vào người đi đường mà còn vào cả nhà người dân hai bên đường. Để tránh bụi, người đi đường phải đi cách thật xa xe tải và chạy thật chậm, nép vào vỉa hè, còn các hộ gia đình chúng tôi phải đóng kín cửa cả ngày, ngăn không cho bụi vào nhà”.

Chủ tịch Ủy ban Nhân dân xã Xuân Đỉnh Nguyễn Hữu Khiêm cho biết: Chúng tôi rất bức xúc trước tình trạng xe cơ giới chở vật liệu xây dựng chạy qua địa bàn xã Xuân Đỉnh làm hư hại các tuyến đường và gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, đời sống, sinh hoạt của người dân. Nhưng việc xử lý là vượt chức năng, quyền hạn của xã. Chúng tôi đã kiến nghị với thành phố xem xét, giải quyết dứt điểm tình trạng trên. Theo đó, ngoài việc phải nhanh chóng tiến hành duy tu, sửa chữa, làm hệ thống cống để thoát nước thải tại đường Tân Xuân, thì phải bố trí lực lượng vệ sinh môi trường có mặt thường xuyên để khắc phục vật liệu xây dựng rơi vãi. Song đã hơn một năm qua vẫn chưa thấy phản hồi của các cấp có thẩm quyền, ông Khiêm cho biết thêm.

– Công ty Vedan từ chối bồi thường thiệt hại cho nông dân: Bắt đầu khoảng giữa năm 1990 cho đến năm rồi 2008, công ty sản xuất gia vị Vedan ở tỉnh Đồng Nai đã xả nước thải một cách bất hợp pháp ra dòng sông Thị Vải qua hệ thống ống thoát ngầm. Sự ô nhiễm dòng sông đã làm ảnh hưởng trầm trọng nguồn thủy sản và những hộ nuôi trồng thủy sản trên lưu vực sông Thị Vải. Công ty Vedan chuyên sản xuất hàng gia vị của Đài Loan đã từ chối bồi thường thiệt hại cho nông dân Việt Nam vì đã gây ô nhiễm cho dòng sông Thị Vải, họ nói rằng yêu cầu bồi thường 34 triệu đô-la là qúa cao, viên chức nhà nước cho hay hôm 18/8/2009, theo bản tin DPA.

Trụ sở Vedan

– Sông Thị Vải bị Vedan bức tử giải quyết chưa xong thì sông Thị Tính đang bước theo chân Thị Vải (25/07/2009): Rạng sáng 25-7, sông Thị Tính (giáp ranh giữa xã An Điền và thị trấn Mỹ Phước, huyện Bến Cát, Bình Dương) bất chợt bốc mùi hôi tanh đến khó chịu. Đến khoảng 6 giờ sáng, toàn bộ dòng sông từ khu vực thị trấn Mỹ Phước đổ ra sông Sài Gòn đều bị nhuốm đen, nhiều đoạn đen đặc quánh. Người dân làng chài quanh đó phát hiện cá ngáp, nổi bụng, tróc vảy và chết hàng loạt. Nhiều người dân ở ấp Cầu Sắt, xã Lai Hưng, huyện Bến Cát (Bình Dương) cho rằng nó sẽ theo chân “bà chị” Thị Vải! Bởi câu chuyện của Công ty TNHH San Miguel Pure Foods VN không chỉ có mỗi chuyện vỡ bờ bao hồ chứa nước thải. Như đã được báo chí đưa tin qua chuyện 233.000m3 nước thải chưa qua xử lý của Công ty TNHH San Miguel Pure Foods VN đổ ra suối Bến Ván do sự cố bể bờ bao hồ chứa là câu chuyện được nhiều người dân Sàigòn và Bình Dương quan tâm. Mọi người quan tâm bởi số lượng nước thải nguy hại này theo suối Bến Ván chảy ra sông Thị Tính, rồi từ sông Thị Tính đổ ra sông Sài Gòn, ngay vị trí hai nhà máy nước Thủ Dầu Một và Tân Hiệp. Ông Nguyễn Xuân Tình, tổ trưởng tổ 11 ấp Cầu Sắt, cho hay: “Người dân gọi đây là khúc suối cụt. Nước thải xả ra con suối này đã mười mấy năm nay. Tui nói thẳng, khu này chỉ có mỗi Công ty TNHH San Miguel Pure Foods VN là ôm trọn con suối này. Khổ nhất là mỗi khi mưa gió, nước thải đen đặc chảy ầm ầm, mùi hôi nồng nặc bay xộc vào nhà dân. Khổ lắm! Tôi đi họp ở xã đã phản ảnh, rồi tiếp xúc HĐND huyện, tỉnh cũng nhiều lần trình bày nhưng chỉ được trả lời là đã phạt nhiều lần nên… đành cam chịu”. Thị Vải đã có chị em kết nghĩa cùng chung số phận ô nhiễm hôi tanh!

– Quảng Trị: Ô nhiễm đang đe dọa trầm trọng (30/07/2009): Sáng 29-7, kỳ họp thứ 18 HĐND tỉnh Quảng Trị (khóa 5) đã được tổ chức tại hội trường UBND tỉnh. Các đại biểu HĐND sẽ nghe và chất vấn về 11 báo cáo và đề án trong các lĩnh vực kinh tế – xã hội, an ninh quốc phòng. Hai báo cáo về “kết quả giải quyết kiến nghị của cử tri” trong thời gian qua và báo cáo “tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri” đối với kỳ họp lần này đều cho thấy việc môi trường bị ô nhiễm được nhiều cử tri khẩn thiết kiến nghị và mong có giải pháp từ phía chính quyền.

Nhà máy cao su Camel với 100% vốn của Thái Lan đi vào hoạt động khá sớm ở khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo được xếp “đầu sổ” trong vấn đề làm ảnh hưởng môi trường. Với công suất 5.000 lốp xe và 20.000 săm xe máy/ngày, nhưng tọa lạc gần như ở trung tâm khu thương mại, Nhà máy cao su Camel đã được đoàn thanh tra của Cục Bảo vệ môi trường lấy mẫu giám định chất lượng không khí tại đây, kết quả cho thấy có một thông số vượt TCVN, đấy là lượng bụi lơ lửng = 1,65mg/m3 (tiêu chuẩn: 0,3mg/m3), vượt 5,5 lần.

Nhà máy gỗ MDF cũng nằm trong số những đơn vị bị cử tri kêu ca. Do thiếu tính toán từ ban đầu, nhà máy sản xuất gỗ ép này hiện đang nằm giữa trung tâm của khu công nghiệp và khu dân cư đô thị phía nam thị xã Đông Hà. Khoảng cách từ nhà máy đến trụ sở các ban ngành vừa được xây dựng trên tuyến đường 9D chỉ có bán kính vài trăm mét. Nhà máy còn tự ý xả nước thải vượt tiêu chuẩn cho phép nhiều lần ra khu dân cư phường Đông Lương và sông Vĩnh Phước. Việc giám sát chất lượng môi trường tại khu vực không theo quy trình cam kết, vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường.

Nhà máy chế biến cao su Gio Linh của Công ty Cao su Quảng Trị cũng bị cử tri khu vực sống trong vùng ảnh hưởng của nhà máy kiến nghị về vấn đề ô nhiễm môi trường. Các xí nghiệp khai thác Titan ven biển cũng đang gây ảnh hưởng đáng kể về môi trường sinh thái của địa phương.

Một số nhà máy gây ô nhiễm bị kiến nghị xử lý trong kỳ họp trước chưa được giải quyết xong trong thời gian qua thì tại kỳ họp này lại có thêm nhiều nhà máy mới bị cử tri phản ánh về tình trạng gây ô nhiễm môi trường như Nhà máy phân bón Bình Điền, trạm trộn bêtông, Nhà máy gạch Tuynen, Nhà máy Ximăng… Tất cả những nhà máy này đều tập trung ở khu vực phường 4, thị xã Đông Hà và đang đe dọa sức khỏe hàng ngàn người dân khu vực này.

– Lại chuyện chất vấn chuyện phá rừng, hại sông (23/07/2009): Tại phiên chất vấn trong ngày bế mạc kỳ họp thứ 21 HĐND tỉnh Quảng Nam ngày 22/7, các đại biểu vẫn xoáy vào câu chuyện dài ở tỉnh: tình trạng phá rừng, khai thác vàng sa khoáng, cát sỏi. Ông Nguyễn Văn Sỹ – chủ tịch HĐND tỉnh – nhắc lại: hàng trăm cử tri bức xúc tình trạng này vẫn chưa được chấn chỉnh triệt để, vi phạm rừng được phát hiện nhiều hơn. Năm 2008 tăng gần 500 vụ so với năm 2007 (gần 2.500 vụ), sáu tháng năm 2009 gần 1.000 vụ vi phạm. Lâm tặc nhiều thủ đoạn nhưng lực lượng kiểm lâm thiếu hụt đến 1/3, phương tiện yếu kém. Đại biểu Nguyễn Xuân An (huyện Quế Sơn) chất vấn: “Kỳ họp trước đồng chí cũng xin nhận kiểm điểm và hứa sửa chữa, khắc phục nhưng vẫn vậy. Liệu có phải còn rừng thì còn lâm tặc phá, hết rừng mới thôi? Vậy trách nhiệm đồng chí đến đâu?” . Ông Quang phân trần: “Chúng tôi đã làm đủ các giải pháp, chặn trên – bắt dưới cũng không được. Tinh thần anh em thì có nhưng vật chất không có cũng chịu, lại nguy hiểm tính mạng. Quan trọng là ý thức toàn dân, đấu tranh của chính quyền địa phương”. Ông Quang hứa cuội: “Tôi nhận trách nhiệm một lần, giờ một lần nữa. Ai làm quản lý cũng như vậy thôi”.

Ông Lê Minh Ánh – chủ tịch UBND tỉnh – khẳng định: “Không thể chấp nhận việc lâm tặc, khoáng tặc làm tan nát rừng, sông, không bất lực trước nạn phá rừng”. Ông chỉ rõ nguyên nhân là từ cách quản lý và con người. Ông dẫn chứng việc thôn trưởng cho phép mở đường 1,1km để vào phá rừng, xã cũng “mạnh tay” ký giấy khai thác vàng sa khoáng. Trâu kéo gỗ thay vì bị tịch thu thì đứng nhởn nhơ, tàu cuốc khai thác vàng sa khoáng nằm giữa sông mà không xử lý được. “Cần chấn chỉnh kỷ cương phép nước; điều chuyển cán bộ, công chức rảnh rỗi; tăng cường trách nhiệm cụ thể cho kiểm lâm để giải quyết tình trạng khai thác gỗ, cát sỏi, vàng sa khoáng trái phép” – ông Ánh phát biểu.

Những chuyện kinh hoàng to lớn về các công trình xây dựng tầm vĩ mô

Cầu Cần Thơ bị sụp!

– Kinh hoàng nhất, đến độ phải gọi “thảm họa” là vụ sập cầu Cần Thơ: đã khiến 54 người thiệt mạng và gần 200 người bị thương. Thảm họa ập đến vào 7h45 sáng 26/9/2007, khi hai nhịp dẫn P14, P15 của cầu Cần Thơ dài 90 mét nặng hàng trăm tấn đã đổ sập, chôn vùi gần 200 công nhân đang thi công. Phải mất 21 ngày sau, thi thể nạn nhân thứ 54 được tìm thấy và đưa đi mai táng. Một thảm họa đã được tiên báo trước! “Vướng đá chẻ, một trong 3 trụ của giàn giáo không thể khoan sâu đúng chiều dài thiết kế, nhưng vẫn được cho đổ móng, dẫn đến lún trụ này, gãy bê tông, sập dây chuyền” – một nhóm công nhân thoát chết sau vụ tai nạn kinh hoàng tố giác. Ngoài ra các chuyên viên Nhật, giám sát viên Hiroshi Kudo đã cảnh báo thảm họa trước đó đúng 3 tháng trong bức thư gửi đến người có trách nhiệm với dự án xây dựng cầu Cần Thơ: “… Điều kiện làm việc này rất nguy hiểm. Nhà thầu nhất thiết phải thiết kế lại”.

Hầm Kim Liên luôn bị nước ngập

– Hầm Kim Liên, một danh xưng để người dân diễu cợt về trí tuệ của miền Bắc: Vừa mới khánh thành xong đã trở thành hồ bơi dài nhất Việt Nam sau 2 giờ thông xe. Hầm xe cơ giới Kim Liên được khởi công từ tháng 7/2006, với tổng vốn đầu tư hơn 467 tỷ đồng. Hầm dài 140m, đường dẫn dài 100 m, chiều rộng hầm 18,5m, chiều cao 6,25m, chiều cao thông xe trong hầm 4,75m. Ngoài đường hầm dành cho xe cơ giới còn có hầm dành cho người đi bộ gồm hai nhánh cắt qua đường Lê Duẩn và Giải Phóng, cùng hệ thống thoát nước, chiếu sáng, tuy nen kỹ thuật… Sau nhiều lần trì hoãn vì chậm tiến độ, sáng 16/6/2009, UBND Hà Nội đã tổ chức thông xe hầm cơ giới nút giao thông Kim Liên – Đại Cồ Việt, nơi từng là điểm đen về ùn tắc giao thông, nhưng đã phải đóng cửa ngay sau 2 tiếng thông xe vì mưa ngập. Điện tắt, nhiều người dắt xe lội nước giữa căn hầm được quảng bá là hiện đại nhất Hà Nội. Chưa xong, người ta lại khám phá ra nhiều vết rò rỉ vào ngày 4/8/2009. Những vết rò rỉ tại điểm nối giữa đốt 8-9 tiếp tục lan rộng, nhiều vị trí khác trên tường xuất hiện rò rỉ mới. Nước từ nơi rò rỉ chảy loang trong hầm. Đại diện Ban quản lý cho biết, đã có hiện tượng lún cục bộ 1-2mm, nhưng vẫn trong mức độ cho phép. Dự kiến toàn bộ dự án nút giao thông Kim Liên sẽ được hoàn thành vào 10/10/2009.

Dự án Hầm Thủ Thiêm

– Hầm Thủ Thiêm, một danh xưng để người dân diễu cợt về trí tuệ của miền Nam: Hầm Thủ Thiêm mang danh đường hầm lớn nhất Đông Nam Á vượt sông Sài Gòn. Với hình hài một chiếc võng khổng lồ “ôm” trọn lòng sông, hầm Thủ Thiêm dài gần 1.500 mét, đoạn hầm dìm dài 371m, gồm 4 đốt hầm. Mỗi đốt dài 92,4m, rộng 33,2m, cao 9m và nặng 27.000 tấn, đủ cho 6 làn xe lưu thông, sẽ trở thành biểu tượng mới của Sàigòn trong tương lai. Tuy nhiên Chưa thi công xong đã có nhiều vết nứt đáng ngại làm xôn xao trong dư luận. Hầm Thủ Thiêm nằm dưới đáy sông Sàigòn thuộc dự án đại lộ Đông Tây là công trình ngầm vượt sông đầu tiên tại Việt Nam (quan lớn Huỳnh Ngọc Sĩ, Phó GĐ Sở GTVT TP.HCM đã liên quan đến vụ hối lộ bị Nhật tố cáo!), với số vốn đầu tư 10 ngàn tỷ đồng và dự kiến đi vào hoạt động vào đầu năm 2010. Từ tháng 8/2009 cả 4 đốt hầm Thủ Thiêm đoạn dìm vượt sông Sài Gòn đều xuất hiện nhiều vết nứt trên bề mặt và có xu hướng tăng lên, ảnh hưởng tới chất lượng công trình. Tài liệu đánh giá các đề xuất kỹ thuật bể đúc của nhà thầu Nhật Bản Obayashi do Viện Khoa học Công nghệ xây dựng (Bộ Xây dựng) đã được báo cáo trước Hội đồng tư vấn của Bộ vào ngày 17/9/2003. Nứt đốt hầm dìm Thủ Thiêm đã được cảnh báo trước… 5 năm! Bản báo cáo dày công này đã đến được những địa chỉ cần đến, song, rõ ràng đã 5 năm qua, những người quyết định và thực hiện dự án hầm dìm Thủ Thiêm đã bỏ qua, ngay cả khi sự cố đã xảy ra theo đúng “dự báo” của các chuyên gia thì nó vẫn không được nhắc đến. Điều này đang làm các quan lớn… rất đau đầu.

– Thi công đến đâu, cống vỡ đến đó (06/08/2009): Đường Đặng Văn Bi (Q. Thủ Đức, TP.HCM) đoạn từ đường Võ Văn Ngân kéo dài hơn 300m đến trước nhà số 245 Đặng Văn Bi lổn nhổn đá dăm, lênh láng nước ngay trong thời tiết nắng ráo. Công trường thi công đường ống thoát nước đi tới đâu làm ống cống bể tới đó. Người dân khu vực này phản ảnh từ khi dự án cải tạo đường ống thoát nước do Công ty TNHH Bạch Đằng – thành viên của Công ty Dịch vụ công ích thanh niên xung phong khởi công (đoạn từ phân xưởng 2, Công ty Chế biến thực phẩm Thủ Đức), đoạn đường này thường xuyên được “nhúng” nước cống bất kể nắng mưa.

– Dự án thành phố ven sông Hồng giai đoạn 2 (14/08/2009): Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải vừa có ý kiến kết luận dự án quy hoạch cơ bản phát triển khu vực sông Hồng đoạn qua Hà Nội. Ông Hải đồng ý cho phép UBND TP Hà Nội tiếp tục hợp tác với TP Seoul (Hàn Quốc) triển khai nghiên cứu giai đoạn hai dự án này, bao gồm toàn tuyến sông Đà – sông Hồng tiếp giáp và chảy qua Hà Nội (chiều dài gần 180 km). UBND TP Hà Nội chủ trì, phối hợp với Bộ Xây dựng và các bộ, ngành liên quan xem xét toàn diện các mặt, đặc biệt vấn đề thoát lũ; tiến hành kiểm định về kỹ thuật, thí nghiệm mô hình vật lý thủy lực làm cơ sở khẳng định phương án thoát lũ sông Hồng và an toàn đê điều. Người dân Hà thành vẫn không quên được trận lụt đại hồng thủy vào tháng 11/2008 rồi tự hỏi UBND TP Hà Nội có lẽ đủ tài đủ sức đưa tay thần với tới trời để phòng chống lũ qua việc tay người muốn nắn sông Hồng. Dòng sông Hồng bị dẫn vào ngõ cụt rồi thoát đi đâu? Một dân Hà Nội tâm sự: “Hiện nay, chúng ta đang có rất nhiều những mối nghi ngờ, và cũng rất nhiều điều không phải chỉ là nghi ngờ nữa về những dự án “treo”. Nó làm cho người ta không còn có lòng tin vào một cái gì đó thành hiện thực…“

Lời kết:

Chỉ dựa vào một lời nói của ông Nguyễn Tấn Dũng tại Tây Nguyên “quyết tâm triển khai dự án này (Bauxit) vừa đạt hiệu quả kinh tế – xã hội cao, vừa là dự án mẫu về bảo vệ môi trường sinh thái“ mà chúng ta phải tìm tòi các sự việc người dân đang trải qua trong cuộc sống đời thường ngày bằng đau thương, mất mát, bệnh tật, mạng sống, hậu quả tai hại về sức khỏe có thể kéo dài nhiều năm và qua nhiều thế hệ. Nơi đây không chống đối cực đoan, nhưng chúng ta chứng minh những gì do con người dưới sự lãnh đạo của csVN và Tàu gây ra trầm trọng về phương cách đầu tư dự án cực đoan một chiều bất chấp hệ lụy xấu sau này và thật vô trách nhiệm khi gây ô nhiễm môi trường làm tai hại rất lớn đến sức khỏe của người dân.

Khi người Tàu chính thức đóng cửa các quặng mỏ Bauxite tại xứ sở họ và người Ấn Độ cũng làm như thế để ngăn ngừa hậu quả phá hoại môi trường sinh thái nơi đất nước của họ thì ông Dũng lấy trí tuệ nào hoặc lấy tài năng gì để bảo đảm cho câu nói tại Tây Nguyên: “Công ty Chalieco (Tàu) hứa trước thủ tướng sẽ làm tích cực để nhà máy hoàn thành đúng tiến độ, “bàn giao cho nhân dân VN một nhà máy alumina hiện đại”.“

Ông Dũng còn huênh hoang với nhà thầu Chalieco và Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam nếu dự án ở Tân Rai triển khai tốt, hiệu quả, đảm bảo đúng các yêu cầu đã được phê duyệt về kinh tế, môi trường… thì VN sẽ mở rộng việc xây dựng những nhà máy Alumina khác. Ông ta còn nịnh hót Chalieco: dự án đang triển khai ở Tân Rai ngoài hiệu quả kinh tế còn đóng góp rất quan trọng cho quan hệ Việt Nam – Tàu, do đó phải làm thật tốt, uy tín.

Tin tức từ trang Website http://bauxitevietnam.info đã có những phản biện đối lập từ những vị chủ trương vận động chữ ký vào bản Kiến nghị xin dừng dự án Bauxite:

– GS TS Nguyễn Thế Hùng nhìn thấu rõ đường hướng chính trị tại Tân Rai: “Tôi nghĩ cách Trung Quốc chiếm Việt Nam không tốn một viên đạn là khống chế được Tây Nguyên.“

– GS Nguyễn Huệ Chi thách thức sự trong sáng của thủ tướng Dũng trước toàn dân: “Chúng tôi mong rằng trước khi thủ tướng đi thị sát thì ông phải nói với quốc dân rằng vấn đề này đã được Quốc hội thông qua.“ Và GS Huệ Chi nhắc thêm ý chí cương quyết: “Lập trường của chúng tôi, của những người ký vào bản Kiến nghị không thay đổi. Chúng tôi nghĩ đây là một cách ông Thủ tướng muốn trấn an dân.”

– GS Nguyễn Huệ Chi bức xúc về độ tin cậy vào ông Nguyễn Tấn Dũng: “Sự thực thì có giải quyết được như ông ấy nói không còn là một vấn đề khác. Hai công trình đường ngầm Kim Liên và Thủ Thiêm còn sờ sờ đấy”.

Chúng ta được nhắc thêm về tiếng kêu gọi nặng ký nhất về vấn đề quốc phòng tại Tây Nguyên của cựu đại tướng Võ Nguyên Giáp: 3 tâm thư đã được gửi đến ngài thủ tướng Dũng nhưng không được đón nhận ân cần (có thể so sánh như những cảnh báo cho cầu Cần Thơ và Hầm Thủ Thiêm từ các chuyên gia đã nhìn thấy trước những hậu quả không lường được).

Về luật pháp thì luật sư TS Cù Huy Hà Vũ đã can đảm đại diện toàn dân khởi kiện ông Dũng về vụ Bauxite Tây Nguyên vào ngày 03/7/2009 lên Tòa án Nhân dân tối cao vì ban hành trái pháp luật quyết định phê duyệt khai thác chế biến sử dụng quặng Bauxite.

Danh sách ký tên vào bản kiến nghị tại trang Web http://bauxitevietnam.info đã lên đến 2.303 cá nhân ủng hộ. Ngoài ra còn trang Website http://www.dcctvn.net của Dòng Chúa Cứu Thế được kêu gọi từ linh mục Lê Quang Uy với chủ trương “HÃY CỨU LẤY TÂY NGUYÊN KHỎI THẢM HOẠ BAUXITE ĐỎ” từ ngày 25/4/2009 đã có 9.841 người ký tên từ trong nước lẫn ở hải ngoại ủng hộ. Đặc biệt thư kêu gọi của linh mục Quang Uy đã được dịch sang các ngoại ngữ: Anh, Pháp, Đan Mạch, Đức, Ý và Tây Ban Nha. Đó là những lời cảnh báo thật đúng đắn trước thảm họa Bauxite cho nhà nước csVN.

Một điều quan trọng khi nhìn vào thực trạng công nghệ gây ra hệ lụy nguy hiểm bệnh tật rộng lớn của Tàu ngày nay, thì ai cũng có thể cảm nghiệm rõ ràng rằng chính phủ cộng sản Tàu không thương dân của họ qua những mầm mống tác động gây ra bệnh tật và góp tay trực tiếp phá hoại môi trường sinh thái, thì làm sao người Tàu có khả năng thương dân Việt Nam chúng ta được.

Một điều hiển nhiên thế giới đang phải chứng kiến các hãng sản xuất của Tàu trong nhiều thập niên đã xả quá nhiều các chất độc ra sông, suối, đất trồng nhiều hơn là thải chúng một cách an toàn. Thậm chí, các chính quyền địa phương cũng làm ngơ vì không muốn ảnh hưởng tới nền kinh tế trong vùng.

Điều khác tại Việt Nam, một mặt nhà nước cs Việt Nam rêu rao tội ác Da Cam và các dị tật khủng khiếp của nó. Đúng, đó là một tội ác gây cho bao nhiêu nạn nhân đau khổ về thể xác và tinh thần, nhưng chính ông Nguyễn Tấn Dũng đang tiếp tay gây tội ác cũng giống y như vậy khi ông ta chưa minh định được rõ ràng hậu quả không lường của bụi đỏ Bauxite.

– Cứ độc đoán tiến hành các dự án phát triển quặng mỏ vì lợi ích nhỏ trước mắt nhưng lại quên đi các tác hại nguy hiểm lâu dài trong môi trường sinh thái thì đó là một trọng tội trước toàn dân.

– Cứ đàn áp dân mình nhưng mù loà trước hiểm họa xâm lăng của giặc phương Bắc là dồn dân tộc Việt Nam vào chỗ nhu nhược rồi từ đó có thể rơi vào vòng nô lệ ngoại bang. Đó là tội đồ phản quốc.

Hà Long

August 24, 2009 Posted by | Bài báo hay, Bình luận, Chính trị | Leave a comment

Cách thức đòi đất

Trích NguoiViet Boston

Lữ Giang

Bây giờ ở hải ngoại, gần như người Việt chống cộng nào cũng thuộc bài thơ hay bài hịch được nói là của Lý Thường Kiệt và coi đó như là khuôn vàng thước ngọc để đánh đuổi quân Tàu. Bài thơ hay bài hịch đó như sau:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Được dịch là:

Sông núi nước Nam vua Nam ở,
Rành rành định phận tại sách trời.
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm,
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.

Vì ít đọc sử, nhiều người tin rằng nhờ bài thơ hay bài hịch đó, Lý Thường Kiệt đã đánh thắng quân Tống, nên ngày nay ta cũng phải dùng bài thơ hay bài hịch đó để cho bọn bá quyền Trung Quốc “một bài học”. Nhưng sự thật không phải thế. Lịch sử cho thấy dưới thời nhà Lý, các vua nhà Lý và Lý Thường Kiệt đã phải chiến đấu rất vất vã và ngoại giao rất khôn khéo mới bảo vệ được đất nước.

ĐÁNH VÀ HOÀ VỚI NHÀ TỐNG

Lý Thường Kiệt (1019–1105) tên thật là Ngô Tuấn, làm tướng thời Lý Thái Tông và Lý Thánh Tông, và làm Phụ chính thời Lý Nhân Tông. Ông là một danh tướng có công đánh và chống lại quân nhà Tống từ 1075 đến 1077, và đã tấn công Chiêm Thành năm 1069, truy đuổi và bắt được vua Chiêm Thành là Chế Củ.
Sử chép rằng dười thời vua Lý Nhân Tông (1072 – 1127) quan Tống là Lưu Gi gây khó khăn cho người Giao Chỉ ở biên giới, vua Lý gởi thư qua hỏi Tống triều, quan Lưu Gi giữ lại không cho đệ về kinh. Vua Lý Nhân Tông liền sai Lý Thường Kiệt và Tôn Đản đem quân đi đánh.
Năm Ất Mão (1075) Lý Thường Kiệt đem quân qua vây Khâm Châu và Liêm Châu (thuộc Quảng Đông), còn Tôn Đản đem quân đi đánh Ung Châu. Lý Thường Kiệt và Tôn Đản giết đến 10 vạn (100.000) người (?), bắt người và lấy của đưa về.
Năm 1076, quân Tống đem đại binh qua nước ta chinh phạt, vua Lý lại sai Lý Thường Kiệt đem quân ra chận quân Tống ở sông Như Nguyện (hạ lưu sông Cầu). Quân Tàu chặt gỗ làm máy bắn đá sang như mưa, thuyền của ta bị thủng rất nhiều, quân sĩ chết mấy ngàn người. Lý Thường Kiệt hết sức chống giữ nhưng sợ quân ta ngã lòng, nên sai người vào đền thờ anh em Trương Hống và Trương Hát (tướng của Triệu Việt Vương) phổ biến bốn câu thơ nói trên và nói do một vị thần ban cho.
Sách “Lĩnh Nam Trích Quái” cho biết bài thơ này không phải của Lý Thường Kiệt. Bài thơ đó đã được sáng tác từ thời Tiền Lê và đã được Lê Hoàn, tức vua Lê Đại Hành (980 – 1005) vận dụng để dánh quân nhà Tống trước đó rồi.
Vua Lý Nhân Tông thấy quân ta không giải vây địch được, trước hơn 80.000, sau chết hơn một nữa, nên quyết định thương lượng xin bãi binh.

CÁC CUỘC THƯƠNG LƯỢNG GAY CẤN

Sở dĩ nước ta nhỏ bé sống bên nước Tàu vĩ đại, “sông liền sông, núi liền núi”, mà không bị biến mất như Tây Tạng, Tân Cương hay Mãn Châu vì các lý do chính sau đây:
Lý do thứ nhất là vì vùng Bắc Việt ngày xưa được coi như là một vùng sơn lam chướng khí, người Tàu đến đây không hợp thủy thổ, bị chết rất nhiều vì các chứng bệnh thổ tả, kiết lỵ, số rét v.v. Do đó, quan và quân Tàu không ở đây lâu được.
Lý do thứ hai là các triều đại của Tàu thay đổi hoài, nên chủ trương cũng thay đổi.
Lý do thứ ba là cha ông ta rất kiên cường, nhưng cũng rất khôn khéo, biết khi cương khi nhu, nên đã đối phó được với Tàu. Nếu cha ông chúng ta lúc nào cũng thích “biểu dương khí thế” như Chiêm Thành, nước Nam cũng đã mất từ lâu rồi.
Chúng tôi xin ghi lại dưới đây các cuộc thương lượng rất gay cấn giữa nhà Lý với nhà Tống như những bài học lịch sử để người đời sau có thể rút kinh nghiệm.

1.- Đòi Lôi Hỏa và Kế Thành

Đời vua Lý Thánh Tông (1054 – 1072), động Lôi Hỏa ở phía tây Cao Bằng được giao cho một tù trưởng người Nùng cai trị, đó là Nùng Tông Đản. Năm 1057, nhân một lúc cao hứng, Nùng Tông Đản đã đem quân qua quấy phá vùng Ung châu của Trung Quốc. Thay vì đánh dẹp quân của Nùng Tông Đản, Trung Quốc đã dụ viên tù trưởng này ly khai khỏi Đại Việt và bổ anh ta coi hai vùng Lôi Hỏa và Kế Thành của Đại Việt và biến vùng này thành đất của Trung Hoa với cái tên mới là châu Thuận An. Bỗng dưng ta bị mất một phần đất!
Vua Lý Thánh Tông sai sứ thần Lê Thuận Tông qua Trung Quốc xin lại phần đất này. Sứ thần Lê Thuận Tông đến Quế Châu gặp quan nhà Tống là Lục Sẵn nhờ tâu lên vua Tống xin trả lại đất. Vua Tống hỏi ý kiên đình thần. Tể Tướng Hàn Kỷ đã tâu như sau: “Xứ Giao Châu rừng núi hiểm trở, khí hậu ẩm độc. Nếu có lấy cũng không giữ được. Chỉ nên vỗ về mà thôi”. Vua Tống liền truyền trả lại hai vùng nói trên cho vua Lý.

2.- Dùng biện sĩ để bàn hoà

Như đã nói ở trước, sau khi Lý Thường Kiệt và Tôn Đản kéo quân qua đánh phá châu Khâm, châu Liêm và Ung châu của Tàu, vua Tống Thần Tông đã sai Quách Quỳ và Triệu Tiết đem quân đánh trả đủa. Quách Quỳ kéo đại binh đến bờ bên kia sông Như Nguyệt, cách kinh đô Thăng Long chỉ khoảng 30 cây số. Quân của Lý kéo tới chận bên này sông, không cho quân Tàu tràn qua. Đại quân của Tàu có khoảng 100.000 binh lính và 200.000 phu, tuy rất mạnh nhưng vì gặp chướng khí và thiếu lương thực nên chỉ sau một thời gian đã chết đến một nữa, phần còn lại đa số đều gầy yếu xanh xao. Tuy thế, khi quân Lý Thường Kiệt mở cuộc tấn công vào Kháo Túc, quân Tàu đã chống cự rất quyết liệt, quân Lý bị thiệt mất hai hoàng tử là Hoàng Chân và Chiêu Văn.
Thấy địch khó thắng được ta vì không hạp thủy thổ và lương thực tiếp tế thiếu hụt, còn ta khó chống lại địch vì thực lực không bằng địch, và nếu quân Tống bị bại trận này, vua Tống có thể cử đại binh khác qua chinh phạt, nên Lý Thường Kiệt tâu với triều đình rằng “dùng biện sĩ để bàn hòa, không nhọc lòng tướng tá, khỏi tốn máu xương mà bảo an được tông miếu.” Vua Lý Nhân Tông đồng ý, sai Kiều Văn Ứng là quan giữ chức Văn Tư Sứ, có tài biện luận và thuyết phục, đến gặp Quách Quỳ để xin hòa.
Kiều Văn Ứng đã nói với Quách Quỳ rằng việc quân Việt kéo qua quấy phá châu Khâm và châu Liêm của đại quốc là do sự xúi biểu của người Tống là Từ Bá Tường chứ không phải chủ trương của vua Đại Việt. Vậy nếu đại quốc bằng lòng lui binh, nước Đại Việt sẽ cử sứ sang tạ lỗi và xin tiếp tục nộp cống như xưa.
Mặc dầu Kiều Văn Ứng xuống nước như vậy, Quách Quỳ nghĩ rằng mình là Tướng đem đại quân đi trừng phạt nước Việt, chưa làm được gì cả mà đã thiệt mất nữa quân số, nay nếu rút lui như thế này thì coi như bị thua trận, chắc chắn sẽ không khỏi bị triều đình trừng phạt. Do đó, Quách Quỳ không đồng ý.
Kiều Văn Ứng về trình lại, Lý Thường Kiệt liền sai Kiều Văn Ứng qua thương thuyết lần thứ hai, đưa điều kiện mới cho Quách Quỳ: “Nơi nào quân Tống đã chiếm, coi nơi đó như đất Tống.” Tuy nói như vậy, nhưng Lý Thường Kiệt thừa biết rằng Quách Quỳ không thể ở Đại Việt lâu được vì thủy thổ không hợp, quân sĩ sẽ chết lần mòn hết, nên thế nào cũng phải rút lui. Khi quân Tống rút lui thì đất Đại Việt lại trở về Đại Việt.
Quách Quỳ cũng hiểu như thế, nhưng với điều kiện mới này, Quách Quỳ có thể lui binh mà không bị mang tiếng là thua trận. Do đó, khi nghe Kiều Văn Ứng đưa ra điều kiện mới, Quách Quỳ đành chấp thuận, nhưng than: “Ta không đạp đổ được sào huyệt của giặc, bắt được Lý Càn Đức (tức Lý Nhân Tông) để bảo mệnh triều đình, đó là tại Trời. Thôi, ta đành chịu tội với triều đình để cứu hơn 10 vạn nhân mạng”.
Quách Quỳ tâu về triều đình, vua Tống chấp nhận điều kiện của vua Lý. Thế là đến đầu tháng 2 năm Đinh Tỵ (1077), chiến cuộc coi như chấm dứt.

3.- Chiến thuật vừa đánh vừa đàm

Khi quân của Quách Quỳ rút đến đâu thì quân nhà Lý tiếp thu đến đó. Nhưng quân Tống đã giữ lại 5 châu miền núi không chịu rút, đó là các châu Quảng Lang, Tư Lăng, Tô Mậu, Môn và Quảng Nguyên. Quân Tống quyết giữ hai châu Quảng Lang và Quang Nguyên vì đó là cửa khẩu đi vào châu Ung của Tàu. Ngoài ra, Quảng Nguyên lại còn là nơi có mỏ vàng. Nhà Tống ra quyết định đổi Quảng Nguyên thành châu Thuận An và nâng Quảng Lang lên thành huyện.
Trước tình trạng nói trên, Lý Thường Kiệt bất thần cho quân tiến vào chiếm Quảng Lang. Nhưng Lý Thường Kiệt không dám đánh Quảng Nguyên vì nơi đó có đại binh của Tống đang giữ. Ông lại quyết định dùng ngoại giao để lấy lại Quảng Nguyên. Ông bàn với vua Lý Nhân Tông sai sứ thần Lý Kế Nguyên qua Ung châu thương lượng với quan Tàu là Triệu Tiết đang cai trị ở đây, nhờ xin trả lại Quảng Nguyên, hứa sẽ phóng thích hết các tù binh đang giam giữ và tiếp tục triều cống.
Triệu Tiết về triều xin yết kiến vua Tống và trình bày thỉnh nguyện của sứ giả Đại Việt. Vua Tống đã xuống chiếu như sau: “Giao Chỉ đã theo ta rồi. Nếu nó sai người tới bàn việc, hãy cho tới Quế Châu.” Tuy nhiên, vua Tống vẫn sợ quân Lý lại bất thần đánh Ung châu như đã đánh Quảng Lang, nên đã hỏi Triệu Tiết: “Giao Chỉ thuận nghịch như thế nào? Chúng sắp vào cống. Thế nào chúng cũng yêu cầu trả miền đã nhượng cho ta, ta nên trả lời nhanh hay chậm, cho chúng nhiều hay ít?”
Biết được sự lo sợ của Vua Tống, sứ thần Lý Kế Nguyên đến biên giới Việt – Hoa để trấn an và thương lượng với quan Tàu về việc xin lại đất. Lý Kế Nguyên khẳng định với Triệu Tiết rằng nước Đại Việt không theo đuổi mục tiêu quân sự, chỉ muốn sống hòa bình.
Quan Tàu lấy ấn tín vua Tàu đã phong cho vua Lý ra mà hiểu dụ rằng Lý Càn Đức (tức Lý Nhân Tông) phải trả lại nhân khẩu đã cướp, triều đình Tống mới cấp đất cho. Lý Kế Nguyên làm biểu của vua Lý dâng lên vua Tống nói rằng vua Lý chấp thuận điều kiện đó. Nhưng khi đọc biểu của vua Lý, Triệu Tiết thấy rằng trong đó có chỗ dùng chữ phạm húy nên không dám dâng. Lý Kế Nguyên phải trở về Thăng Long làm lại tờ biểu khác, bỏ chỗ phạm húy đó đi.
Đầu năm Mậu Ngọ (1078), vua Lý Nhân Tông lại sai sứ thần Đào Tông Nguyên qua Trung Quốc xin lại đất Quảng Nguyên và Quảng Lang. Sứ đem theo một tờ biểu và 5 con voi cống vua Tống. Biểu viết như sau:
“Tôi đã nhận được chiếu chỉ cho phép theo lệ tới cống y như lời tôi thỉnh cầu. Chiếu lại đã sai quan thuộc Ty An phủ định rõ cương giới và dặn tôi không được xâm phạm. Tôi đã vâng lời chỉ dụ. Nay sai người tới cống phương vật. Tôi xin triều đình trả lại các đất Quảng Nguyên và Quảng Lang.”
Triệu Tiết nhận biểu và tâu về vua Tống. Vua Tống ra chỉ dụ: “Hãy để sứ thần tới kinh rồi hãy phán xử về cương giới”. Tuy nhiên, vua Tống cũng ra lệnh đề phòng những hành động của người Việt. Vua đã phê vào biểu của vua Lý:
“Sứ Giao Châu tới kinh. Vì chúng mới đánh cướp đất ta nên phải đề phòng. Khi còn ở dọc đường cũng như khi tới kinh, hễ chúng ra vào phải cắt người giám thị. Vậy phải viết thư cho Ty Kinh Lượng Quảng Tây và các viên hộ tống phải mau mau báo cáo. Nếu dọc đường có xẩy ra việc gì, Ty Kinh Lược chưa kịp bẩm thì cứ việc mà thi hành”.
Vì phải dẫn đàn voi 5 con đi rất khó nhọc nên mãi đến ngày 2 tháng 9 năm Mậu Ngọ, tức 9 tháng sau, sứ thần Đào Tông Nguyên mới tới được kinh đô nước Tàu. Khi qua kinh Hồ Bắc, viên phụ trách chuyển vận sứ không có đủ phu hộ tống để đưa đàn voi qua, sứ Đào Tông Nguyên phải bỏ tiền ra thuê thêm phu phục dịch đàn voi.
Triệu Tiết khuyên vua Tống Thần Tông không nên trả lại hai châu cho nhà Lý cho đến khi vua Lý trả lại các tù binh và nhân khẩu đã bị bắt năm trước, nên vua Tống đã xuống chiếu cho vua Lý:
“Khanh đã được triều đình cho coi cỏi Nam Giao, đời đời ban vương tước, thế mà khanh đã bội đức, phụ mệnh tới cướp phá các biên thành, đã bỏ lòng trung thuận của cha ông, làm phiền quân triều đình phải đi chính phạt. Đến lúc quan quân vào trong cõi, thế bức bách rồi khanh mới quy hàng. Xét tội thì khanh càng đáng bị truất chức.
“Nay khanh đã sai sứ tới cống dâng lời kính cẩn. Xét rõ tư tình, Trẩm thấy khanh đã biết hối.
“Trẩm vỗ về vạn quốc không kể gần xa, nhưng khanh phải trả dân các châu Khâm, Ung mà khanh đã đưa đi xa làng mạc chúng. Đợi khi nào đưa chúng trở về hết, Trẫm sẽ lập tức lấy các châu Quảng Nguyên ban cho khanh”.
Đào Tông Nguyên thay mặt vua Lý xin hứa sẽ trả lại một nghìn quân và dân đã bắt ở ba châu Khâm, Liêm và Ung. Vua Tống lại đặt thêm một điều kiện mới là phải trừng phạt những kẻ cầm đầu đã gây ra các cuộc quấy phá. Vua Tống xuống chiếu như sau:
“Giao Chỉ quận vương Lý Càn Đức (tức Lý Nhân Tông) bằng lòng trả những người đã cướp ở ba châu Ung, Khâm, Liêm thì theo lời khanh đã xin, Trẩm đem các châu Quảng Nguyên và huyện Quảng Lang trả lại cho, nhưng phải đem các thủ lĩnh đã gây loạn đến biên giới xử”.
Biết được quân Tống sẽ không thể ở lại Quảng Nguyên lâu dài vì thời khí ở đây rất khắc nghiệt, quân Tống cứ đau ốm mà chết dần, nên Lý Thường Kiệt chỉ trả một ít tù binh và nhân khẩu mà thôi. Các tù nhân và nhân khẩu này đang bị giam tại Nghệ An.
Ngày 13 tháng 10 năm Kỷ Mùi (1078) các tù nhân được đưa đến Quảng Tây bằng thuyền. Để cho các tù nhân không biết họ đã bị giam giữ ở nơi nào, cách xa biên thùy Trung – Việt bao nhiêu dặm, các tù nhân được đưa lên các thuyền bịt kín, ở trong thắp đèn, để các tù nhân không biết ngày hay đêm. Mỗi ngày thuyền chỉ đi từ 10 đến 20 dặm rồi dừng lại. Thuyền đi mất mấy tháng mới tới Quảng Tây. Ty Kinh Lược Quảng Tây tâu lên vua Tống rằng Giao Chỉ đã trả 221 người. Đàn ông từ 15 tuổi trở lên đều có thích vào trán ba chữ “Thiên tử binh” (quân của Thiên tử). Một số người bị thích chữ “đầu Nam triều” (theo về với Nam triều). Đàn bà chỉ thích vào tay trái chữ “Quan khách”.
Vua Tống phê lên biểu của Ty Kinh Lược Quảng Tây: “Thuận châu là nơi lam chướng, dẫu được cũng không lợi ích gì, há nên dồn quân lính vào chỗ chết ư?”. Sau đó vua Tống truyền trả lại đất Quảng Nguyên cho vua Lý. Tuy nhiên, quan coi Ty Kinh Lược Quảng Tây đã giữ lại một số động và nói rằng đất đó trước đây thuộc Ung châu của Trung Quốc, rồi họ dồn 9929 người vào vùng này. Như vậy, mặc dầu đã đấu tranh rất căm go, một phần đất của nước Việt vẫn còn nằm trong tay của nhà Tống.

4.- Đi thỉnh Tạng kinh để cầu hoà

Năm Tân Dậu (1080), vua Lý lại đưa một phái đoàn gồm 156 người đến Trung Quốc để nạp cống đồng thời xin thỉnh Tạng kinh của Đức Phật. Phái đoàn do Dương Dũng Luật làm chánh sứ, còn Nguyễn Văn Bội làm phó sứ. Vua Lý Nhân Tông làm một tờ biểu dâng lên vua Tống như sau:
“Trước đây tôi có sai bọn Đào Tông Nguyên vào triều cống nhưng bị quan Quảng Châu cầm chế, ngăn cản nên các thú vật đem cống không cùng tới một luợt được. Nay tôi lại sai viên Lương Dũng Luật và Nguyễn Văn Bội đi thuyền tới cống. Xin giáng chỉ cho phép theo lệ mà vào kinh”.
Viên quan đang cai quản Quảng Tây lúc đó là Trương Hiệt đã tâu lên vua Tống rằng phái đoàn Giao Chỉ vào cống lên đến 156 người. Như vậy theo lệ cũ, thừa ra 56 người. Vua Tống Thần Tông truyền lệnh cứ cho vào, nhưng lần sau phải giữ lệ cũ là 100 người mà thôi. Sở dĩ phái đoàn Đại Việt đi đông như vậy là vì phải có đủ người mới thỉnh Tạng kinh được, vì bộ kinh này rất lớn.
Sứ bộ xin đi theo đường thủy là đường Kinh Hồ để vào kinh. Vua Tống thuận và sai một viên kinh hộ tống theo phái đoàn đi thỉnh Tạng kinh. Sau đó, vua Tống còn hạ chỉ cho các quan cai quản tỉnh Quảng Tây: “Từ nay, hể có chiếu cho An Nam thì sai Khâm Châu báo cho nước ấy, đợi họ sai người tới biên giới thì giao cho”.
Như vậy, nhờ tài ngoại giao khéo léo, nhà Lý đã lấy lại được các phần đất đã bị quân Tàu chiếm và thiết lập được bang giao thân thiện với Trung Quốc, chứ không phải chỉ đọc hịch và “biểu dương khí thế” mà có như nhiều người lầm tưởng.

CÓ VAY THÌ PHẢI CÓ TRẢ

Trên đây là một số bằng chứng về cách đòi đất của người xưa. Dưới thời đảng CSVN, mọi sự đã diễn biến khác hẵn.
Sau Hiệp Định Genève 1954, nhà cầm quyền CSVN cai trị miền Bắc một thời gian mới nhận ra rằng nếu không có miền Nam, miền Bắc không thể phát triển được, nên quyết định phải chiếm miền Nam bằng mọi giá. Muốn chiếm miền Nam, lại phải nhờ Trung Quốc và lệ thuộc vào Trung Quốc như trước đây chống Pháp.
Cuốn “Lịch Sử Kháng Chiến Chống Mỹ Cứu Nước 1954 – 1975” (Tập II, tr. 235) của Bộ Quốc Phòng Hà Nội cho biết sau khi thông qua Nghị Quyết 15 về “giải phóng Miền Nam” vào đấu tháng 5/1959, Đảng CSVN đã đem nghị quyết này đi trình các đảng Cộng Sản Liên Sô và Trung Quốc. Bí Thư Thường Trực đảng Cộng Sản Liên Sô là Kuxơnen nói:
“Đảng Cộng Sản Liên Sô không đồng tình với chủ trương của Nghị Quyết 15, phải củng cố miền Bắc, qua đó rồi thống nhất, không có chuyện vũ trang khởi nghĩa.”
Còn Trung Quốc thì sao? Tài liệu cho biết:
“Đặng Tiểu Bình đồng ý phương hướng chung của cách mạng miền Nam đã đề ra trong Nghị Quyết 15, nhưng nhấn mạnh: hoạt động vũ trang chỉ nên đến quy mô đại đội.”
Cũng như thời chống Pháp, Hà Nội đã tiếp nhận tối đa võ khí và tiếp liệu của Trung Quốc để chiếm miền Nam. Để đổi lại, Trung Quốc làm gì ở biên giới, Hà Nội cứ phớt lờ, coi như không có chuyện gì xẩy ra. Đảng CSVN tính toán rằng nếu chiếm được miền Nam mà có mất đi vài khu ở biên giới thì chẳng nghĩa lý gì! Mãi đến đầu năm 1979, khi Trung Quốc đem quân qua biên giới “dạy cho Việt Nam một bài học”, Hà Nội mới phản ứng, cho phát hành cùng một lúc ba tập sách, chửi Trung Quốc cạn tàu ráo máng:
(1) “Sự Thật Về Quan Hệ Việt Nam – Trung Quốc Trong 30 Năm Qua” (Bộ Ngoại Giao)
(2) “Phê Phán Chủ Nghĩa Bành Trướng và Bá Quyền Nước Lớn của Giới Cầm Quyền Phản Động Bắc Kinh” (Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam)
(3) “Vấn Đề Biên Giới Giữa Việt Nam và Trung Quốc” (Nhà xuất bản Sự Thật 1979)
Trong gần 10 năm trở lại đây, người Việt chống cộng ở hải ngoại đã thay nhau lớn tiếng chửi nhà cầm quyền CSVN “dâng đất, dâng biển” cho Trung Quốc, nhưng thường chỉ chửi đổng hay chửi khống (như Nam Quan của ta!), không thể nêu đích xác đất bị “dâng” ở chỗ nào. Nhờ tập thứ ba mà Hà Nội đã công bố, chúng ta mới biết được một cách chính xác Trung Quốc đã thật sự chiếm đất của Việt Nam ở những chỗ nào. Tập tài liệu này đã nói có sách, mách có chứng, Trung Quốc không thể cãi được. Một thí dụ cụ thể: Năm 1955, tại khu “Hữu Nghị Quan” (tức Ải Nam Quan):
– Trên tuyến đường sắt: Khi phục hồi đường sắt từ biên giới Việt – Trung đến Yên Viên (gần Hà Nội) cho Việt Nam, Trung Quốc đã đặt điểm nối rây giữa hai nước sâu vào lãnh thổ Việt Nam thêm 300m và coi đây là biên giới giữa hai nước!
Trên tuyến đường bộ: Trung Quốc cho ủi sập cột mốc biên giới số 18 trước Ải Nam Quan, cách ải này 100m, trên đường Quốc lộ 1, rồi đặt cột km số 0 của quốc lộ này vào sâu trên lãnh thổ Việt Nam 100m và coi đó là cột mốc biên giới giữa hai nước. Như vậy, theo Công Ước Thiên Tân, cột mốc biên giới chỉ cách Ải Nam Quan của Trung Quốc 100m, nhưng Trung Quốc đã sửa thành 200m!
Tài liệu cho biết từ 1974 đến 1978, Trung Quốc đã xâm phạm lãnh thổ Việt Nam tất cả 4333 vụ, chia ra như sau: 1974: 179 vụ, 1975: 294 vụ, 1976: 812 vụ, 1977: 873 vụ và 1978: 2175 vụ!
Ở hải ngoại, người Việt chống cộng có hàng chục ngàn chuyên viên chửi Cộng Sản ngày đêm bằng đủ 36 kiểu, không thiếu kiểu nào, nhưng nếu so với những lời CSVN chửi CSTQ trong ba tập tài liệu nói trên, chúng ta thấy những lời chửi bới của người Việt chống cộng chẳng nghĩa lý gì. CSVN còn xài cả “hịch” và nói đó là “Hịch Tướng Sĩ” của Vua Quang Trung đọc ở Thanh Hoá để doạ Trung Quốc, nhưng không cho biết hịch đó đã trích ở tài liệu nào. Hịch đó như sau:

“Đánh cho nó chích luân bất phản,
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn,
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ.”

Có nghĩa là:

Đánh cho không một chiếc xe nào trở về,
Đánh cho không còn một mảnh giáp,
Đánh cho chúng biết rằng nước Nam anh hùng là có chủ”.

Tuy nhiên, sau khi “biểu dương khí thế” long trời lỡ đất như vậy, Hà Nội nhận ra rằng Trung Quốc không hề bị rụng sợi lông chân nào. Trái lại, Trung Quốc đã cho công bố một tập tài liệu có nhan đề “Ghi chép thực về việc đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp”, viết rất lịch sự và nhẹ nhàng, ngầm cho thế giới biết rằng không có Trung Quốc không có Quân Đội Nhân Dân Việt Nam có tổ chức và mạnh, không có chiến thắng Điện Biên Phủ…, làm đảng CSVN đau điếng.
Ngày nay, CSVN đã thấm đòn về chuyện bám vào “hậu phương đáng tin cậy” Trung Quốc để xâm lược, hết tự nhận là “đỉnh cao của trí tuệ loài người”, từ bỏ thói quen “biểu dương khí thế” và bắt đầu học bài học lịch sử của cha ông. Trong cuộc phỏng vấn của đài BBC ngày 19.1.2009, Đại Sứ Lê Công Phụng ở Washington DC đã nói: “Trung Quốc ngày càng lớn mạnh thì Việt Nam càng phải học cách sống chung, nhưng phải không ngừng làm quan hệ với Trung Quốc tốt đẹp trong sự tôn trọng lẫn nhau.”
Nhiều nhà phân tích cho rằng Hà Nội khó thoát khỏi cánh tay của Bắc Kinh, nhưng rồi sẽ chẳng có chuyện gì quan trọng xẩy ra trong lúc này vì hai bên vẫn phải bám vào nhau thành cái thế liên hoàn để bảo vệ tàn dư của chế độ cộng sản còn lại.

August 22, 2009 Posted by | Bài báo hay, Bình luận, Chính trị | Leave a comment

Nguyễn Thanh Ty: Hai năm rõ mười: Một lũ hènViệt gian bán nước!

Trích NguoiViet Boston

Sau khi luật sư Lê Công Định bị công an bắt nóng, bắt khẩn cấp… đến lượt các nhà dân chủ Nguyễn Tiến Trung, Trần Anh Kim cũng bị hốt vào nhà đá cùng lúc với một lô, một lốc khác nữa, tất cả đều bị đảng ta vu cho một tội danh rất trời ơi đất hỡi là “tuyên truyền chống phá nhà nước” chứ tuyệt nhiên không dám chạm tới hai chữ rất “nhạy cảm” và rất “cấm kỵ” là “chống Tàu”. Đảng ta “đón lõng” để kịp thời bịt miệng, bóp họng đúng lúc những ai đang hay sẽ có ý định tố cáo cái dã tâm lăm le cướp nước của thằng Tàu phù là để làm vừa lòng quan thầy Đại Hán và hơn nữa là sợ chúng mích lòng.
Thậm chí những ai mặc áo có in hai chữ Hoàng Sa, Trường Sa cũng bị bắt, bị đàn áp, khủng bố. Hành động mang tính chất tay sai phản dân, phản nước đó đã chứng tỏ hai năm rõ mười rằng cái đảng Việt cộng là một lũ Việt gian bán nước, buôn dân một cách rất lưu manh hèn hạ không thể chối cãi vào đâu được.
Nhạc sĩ Tô Hải viết cuốn “Hồi ký của một thằng hèn” đã bóc mẽ, phơi bày ra một lũ, một bày văn nô, thi nô, nhạc nô, trí nô… tất tật đều là những thằng hèn, suốt đời làm ký sinh trùng bám vào cái đảng thối tha, tệ mạt nhất thế kỷ, tệ hại nhất thế giới để rúc rỉa sống hèn như loài dòi bọ sống trong đống phân hôi thối nhưng xét cho cùng cũng chưa hèn mạt bằng cái đảng Việt cộng đểu cáng này.
Một đảng cầm quyền mà hèn yếu, bạc nhược đương nhiên sẽ sinh sản ra một lũ nô bộc hèn mạt, ti tiện.
Cái đảng Việt cộng ngày nay do đám nô bộc hậu duệ kế tục cỡi đầu, cỡi cổ dân đen còn tệ mạt, đớn hèn hơn lão Hồ kia lúc chưa “chuyển sang từ trần” gấp trăm lần.
Nó hèn hạ, nhục nhã, ê chề hết chỗ nói, không còn một ngôn từ nào tệ hơn nữa, xấu hơn nữa để diễn tả.
Còn nhớ lúc ở trong trại tù “cải tạo” mấy tên quản giáo hay kể lại chuyện “Bác Hồ” rất quyền cơ ứng biến, nói nôm na là rất “ma le, láu cá”, “xử lý” nhiều trường hợp “tế nhị, nhạy cảm” đối với ông anh vĩ đại Trung Quốc thường ngày hay “chơi cha” với ta, để ca ngợi sự thông minh, nhanh trí của “Bác”.
Có chuyện “chín nổ” rất “ma le” như sau:
Thời « Bác Hồ » mới chun từ hang « Pắc Pó » ra để cầm cái ống nói ở quảng trường Ba Đình, hỏi « Đồng bào nghe có rõ không ? » thì Trung Quốc cho dựng một tượng đồng Mao Trạch Đông to lớn, cao hàng mấy mét, đứng sừng sững ở biên giới phía Bắc, (có lẽ là tại cửa ải Nam Quan, gọi chệch đi là Hữu Nghị Quan, không thấy bọn quản giáo nói rõ vị trí) quay mặt và giơ tay xỉa ngón trỏ chỉ về Việt Nam với ngụ ý : “Chúng bay, bọn Nam di, hãy liệu thần hồn, hãy luôn ngoan ngoãn trung thành với Đại Hán, chớ có mà ló mòi phản phúc! Hãy coi chừng đấy!”.
Tin báo về, Bộ Chính trị Ba Đình rất bối rối không biết phải xử trí thế nào trước hành động đầy trịch thượng, ngạo mạn, xấc xược của cái thằng “vừa là đồng chí vừa là anh em muôn vàn kính mến” của đảng ta. Cuối cùng phải báo cáo lên “Chủ tịch nước” để “nắm” và xin ý kiến. “Bác Hồ” nghe xong liền nhe mái hiên tây ra cười tồ tồ một hồi rồi mách nước rằng:
– Các chú cứ sơn một tấm bảng thật to với câu khẩu hiệu: “Không có gì quí hơn độc lập tự do”, rồi đem dựng ngay phía trước mặt bức tượng của Bác Mao chủ tịch vĩ đại, vài hôm sau tức khắc sẽ thấy kết quả tốt xãy ra.
Đám bầy tôi được “Bác” chỉ điểm cho, mừng rỡ y như người lạc đường trong đêm tối nhìn thấy ánh sáng, lập tức cho thực hiện lời vàng ngọc của “Bác”. Quả nhiên, “Bác” nói y như thánh nói, mấy hôm sau, bọn Tàu phù kính mến của “Bác” lặng lẽ hạ tượng của Mao, kéo về dựng ở quãng trường Thiên An Môn. Từ đó huyền thoại trí thông minh, ma le, láu cá của “Bác” được Bộ Chính trị dùng ống đu đủ thổi phồng lên gấp trăm, gắp ngàn lần hơn và lệnh cho toàn thể cán bộ đảng viên phải học thuộc lòng cho kỹ, giống như chuyện chú nhóc Lê văn Tám có gan cóc tía giống như “Bác”, tự đốt mình cháy như cây đuốc vẫn có thể chạy bộ hàng trăm thước để xông vào kho đạn của Pháp cho nổ tung vậy, để lúc nào có cơ hội “nổ” là cán bộ ta “nổ” cho văng miểng luôn.
Câu chuyện trên “tù cải tạo” nghe xong vỗ bụng, cười ngất gọi là chuyện “chín nổ” là vì chuyện kể có “chỗ nổ, chỗ nín”. Chỗ nín là rất “xạo ke”. Xạo ke ở chỗ ai ai cũng biết tỏng rằng dẫu cho “Bác” có mười cái đầu cũng không dám bất kính đối với Mao trạch Đông, vì “Bác” coi họ Mao như thần, như thánh, luôn kính bái thờ ở trên đầu, trên cổ còn hơn cả tổ tiên, ông bà, cha mẹ, nói chi có mỗi cái chổ để đội nón cối mà dám mó dái họ Mao sao!
Chẳng hạn như thời kỳ mới phát động “Cải cách ruộng đất”, Mao nó bảo phải giết bà Nguyễn thị Năm trước tiên để làm gương răn đe trăm họ, bà là người đã hết lòng nuôi giấu “Bác” và nhiều đồng chí trong thời gian “Bác” trốn chui, trốn nhũi bọn mật thám Pháp như chuột, để làm lễ tế cờ xuất phát chiến dịch long trời lỡ đất. Vậy mà Bác sợ co vòi, nín khe, gục đầu không dám cãi một lời, để bà Năm bị đem bắn như con vật tế thần khốn nạn.
Chuyện cứu người ơn kinh thiên địa nghĩa như thế mà còn chưa dám làm huống chi lại phịa chuyện đối kháng, vuốt râu hùm họ Mao, con quĩ uống máu người không biết tanh.
Đúng là chuyện “chín nổ” xạo ke. Nói láo không ngượng miệng, không đỏ mặt.
Ngày nay “Bác” chỉ còn là một cái xác khô đang bị vi khuẩn đục khoét, mục rã từng ngày trong hòm kính đặt ở lăng Ba Đình, mỗi năm phải tốn nhiều tỷ đồng, tiền mồ hôi nước mắt của dân đen để mướn bọn khoa học gia Liên xô về “tu tạo” bằng cách đắp sáp lên khỏa lấp chỗ lồi, chỗ lõm cái khuôn mặt ghê tởm ấy nên không còn ai có khả năng để quyền biến chuyển nguy thành an như xưa nữa.
Còn Bộ Chính trị bây giờ thì toàn là lũ dốt nát, ngu si, ăn hại đái nát, chỉ lo hút máu dân lành làm giàu cho bản thân, khả năng nào mà có thể đối phó được với bọn Tào Tháo tham tàn Bắc kinh luôn tìm cơ hội nuốt chững nước ta, nên toàn là chuyển bại thành xụi với bất cứ chuyện gì có liên quan đến giang sơn đất nước.
Hết dâng đất, dâng biển, hiến đảo rồi bán Tây nguyên để cầu an trước sự ăn cướp, hiếp đáp ngày càng ngang ngược, lộng hành của bọn Tàu với sự lập luận hèn nhát của con đà điểu rúc đầu vào cát rằng: “Thế địch đang mạnh, không thể đối đầu, ta nên nhường nhịn, lùi ba bước để bảo toàn lực lượng. Chừng nào địch yếu hay nội bộ có cơ chia rẽ thì ta sẽ xông lên bóp… dế nó, ắt nó phải chết không kịp ngáp”.
Luận điệu này có tác dụng về lâu về dài giống y hệt nhự bọn trẻ con khi bị kẻ lớn ăn hiếp không thể đánh lại bèn thề một câu cho hả giận: “Mai mốt mày già rồi thì coi chừng tao!”.
Hoặc giống như “chân lý” của A.Q Tố Hữu: “Bên kia biên giới là nhà, bên đây biên giới cũng là quê hương”. “Đất, biển của nị cũng là của ngộ. Giang sơn của ngộ cũng là của nị. Hảo lớ! Hảo lớ!” – Mày lấy giang sơn của tao cũng như mày lấy giang sơn của ông nội mày vậy.
Hồi còn mồ ma, “Bác Hồ” đã hăm hở “nổ” là quyết dẫn năm châu đến đại đồng mà! Sá gì ba cái chuyện lẻ tẻ như ải Nam Quan, thác Bản Giốc, Hoàng, Trường Sa với Tây nguyên dù có dâng cho Tàu thì cũng là một nhà mà, có mất đi đâu mà sợ, mà lo bò trắng răng!
Nhưng, bảo cho mà biết, đất nước này, giang sơn này là của toàn dân, của hơn 80 triệu người Việt Nam, con cháu của Bà Trưng, Bà Triệu… đã đổ nhiều máu xương hàng 4 ngàn năm mới có ngày hôm nay chứ không phải của cái đảng cộng sản ăn cướp chúng bay mà muốn bán, muốn dâng cho giặc tùy tiện. Chớ có vì tham quá mà hóa rồ, dựa vào lời tuyên bố lếu láo của lão Hồ già “thế giới đại đồng” rồi nhắm mắt, nhắm mũi bán hết đất nước của tổ tiên để lại nhé.
Nếu muốn bán đất để làm giàu thì Bộ Chính trị cùng các ban bệ của đảng cướp cứ về nhà đào mã bố của mình lên, lấy xương tàn, cốt rụi mà bán chứ không được đụng đến một tấc đất, tấc biển của tiền nhân đã đổ nhiều xương máu để lại.
Hay hơn hết là đem cái xác khô của Hồ chúa đảng ra chia năm xẻ bảy rao bán để chia chác làm giàu với nhau. Nghe nói nhiều viện bảo tàng tội ác trên thế giới đang sưu tập xác chết những tên độc tài khát máu lúc sinh thời giết người không ghê tay khắp năm châu để trưng bày cho nhân loại chiêm ngưỡng, giờ hãy còn thiếu cái xác của lãoHồ để đặt cạnh xác Hít Le và Pôn Pốt nữa là đủ bộ. Chắc là được giá lắm đấy.
Tập đoàn cộng sản Việt Nam bán nước từ khi nào? Té ra là Hồ chí Minh đã có dự mưu bán nước từ lâu mà ngoài mặt vẫn giấu kín như mèo giấu kít.
Chuyện bán nước bắt đầu bị xì ra là do Bắc kinh thất hứa, không giữ lời mật ước với đảng cộng sản Việt Nam, tuyên bố toét toè loe ra khắp thế giới rằng thì là: “hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa là của ngộ từ lâu, nay ngộ công khai sáp nhập nó vô thành huyện Tam Sa ở Hải Nam của ngộ cho dễ bề cai trị”.
Thế là thanh niên, sinh viên, học sinh trong nước tá hỏa tam tinh, té ngữa ra với cái tin mất đảo động trời, mục đích của “Bác” là đem dâng đảo đổi lấy vũ khí, đạn dược của Tàu để xâm lược miền Nam, chứ chẳng phải vì cái “tình hữu nghị” Việt Trung môi răng cái chó gì cả nói là để giúp nhau xây dựng “xã hội chủ nghĩa” không tưởng của cái lý thuyết cộng sản tào lao, bá láp này, liền kéo nhau xuống đường biểu tình phản đối bọn Tàu phù và bọn Việt gian bán nước.
Đám Bắc Bộ phủ Ba Đình bị vạch mặt chỉ tên tẽn tò, hoảng sợ, quýnh quáng lên không biết làm sao bịt mồm, ngăn chận được sự phẩn nộ của dân để Hán triều khỏi nổi trận lôi đình rồi quở trách, mắng nhiếc là không biết dạy dân rằng “cha đã bán đất rồi mà con đi đòi”, rất có thể mất cái ghế ngồi, có khi còn mất cái chổ đội mũ như bỡn. Bèn một mặt xua công an, chó săn ra cả đàn, cả lũ ra sức đàn áp, bắt bớ, dẹp tan đám biểu tình, bắt nhốt những ai bị cho là cầm đầu, kích động, một mặt cho đám văn nô, bồi bút của bộ máy tuyên truyền gồm 700 tờ báo và mấy chục đài truyền hình, truyền thanh ó lên một lượt rằng: “đây là vấn đề nhạy cảm của hai nước anh em Trung Việt đời đời bền vững thắm thiết, hai bên sẽ ngồi lại với nhau từ từ nói chuyện, để đảng và Nhà nước lo, dân chúng đừng có lo”.
Nào ngờ, đàn anh vĩ đại của “Bác” chơi xỏ lá, tung lên mạng lưới toàn cầu bức công hàm “bán nước” mà “Bác” đã sai anh Đồng vẫu ký năm 1958 đồng ý tán thành 2 đảo này là của Trung Quốc để đổi lấy súng đạn, tàu bò, xe tăng về bắn giết dân miền Nam. Thế là đám chóp bu của Ba Đình cứng họng. Tội bán nước từ thời Hồ Chí Minh giấu diếm mấy mươi năm nay bỗng bị phơi bày tênh hênh ra y như người đàn bà bị lột trần nằm giữa chợ. Giận quá mất khôn, đảng ta xua toàn bộ khuyễn ưng, khuyễn mã ra bắt tuốt tuồn tuột những ai dám nói động đến hai chữ Tàu ô.
Đó chính là lý do đảng cho bắt khẩn cấp luật sư Lê công Định và đám Nguyễn tiến Trung, Trần anh Kim thay vì phải bắt nóng luật sư Cù Huy Hà Vũ dám cả gan gửi đơn kiện quan thái thú Nguyễn Tấn Dũng lạm dụng quyền hạn ký trái phép nghị định giao Tây nguyên cho Tàu phù.
Từ cái hèn này lây lan sang cái hèn khác, như thể tầm ăn dâu, bọn Tàu cộng càng được nước lấn tới đâu thì Việt cộng run sợ co vòi, hèn nhác thụt lùi tới đó.
Nhìn những bức ảnh “hoành tráng” đầy “ấn tượng” trên mạng lưới toàn cầu do truyền thông Bắc kinh đưa lên về buổi lễ mừng “cắm mốc biên giới” thành công do bọn Tàu dàn dựng ở cột mốc cây số 0 Km, sân khấu đỏ rực một màu cờ đỏ 4 sao, có cả thanh la, não bạt, kèn trống inh ỏi, cả đoàn ca vũ biểu diễn rất rình rang, trọng thể với mấy quan chức Việt cộng khúm núm bắt tay quan thầy Tàu cộng để dâng đất thiệt xấu hổ nhục nhã vô vùng.
Thế mà 700 tờ báo quốc doanh cùng với truyền thanh, truyền hình dấu nhẹm đi những bức ảnh đó chỉ tường thuật lại rằng “ta đã thành công lớn trong việc cắm mốc phân ranh giới” “thắng lợi về ta 51%, Tàu chỉ có (chiếm của ta) 49% đất đai mà thôi.
Đến vụ Biển Đông, hơn nửa năm nay, ngư dân các tỉnh miền Trung dong thuyền ra “biển trời của ta” trong hải phận Hoàng Sa để đánh cá đều bị Tàu Trung Quốc, bắn giết hay húc cho chìm. Ngư dân lớp bị chết, lớp bị bắt đem nhốt ở Hải Nam để đòi tiền chuộc. Thủ đoạn man rợ không khác gì bọn cướp biển Tàu ô thuở xưa.
Trước sự việc trầm trọng đó đảng cộng sản Việt cộng “anh hùng” làm gì để giúp dân mình? Cái đảng anh (k)hùng đó trước sau chỉ mỗi một việc là ngậm hột thị, á khẩu, thụt lưỡi để mặc cho Tàu muốn làm gì thì làm, không dám hó hé một câu. Lại còn bảo là “tàu lạ” không dám nói tàu Trung Quốc.
Ngoài một số ngư dân phải bán nhà, bán đất để có đủ tiền tự mình đem chuộc để được thả về, còn lại 12 người vẫn bị giam giữ từ 16/6/09 cho đến nay. Mới nhất, ngày 6/8/09, lại thêm 13 người bị bọn Tàu cướp biển bắt và tịch thug he thuyền nữa.
Hơn 250 thuyền đánh cá của người dân xứ Quảng Đà phải đành nằm bờ nhịn đói, vì không dám ra khơi, sợ bị “tàu lạ” giết hay bắt.
Chủ quyền của Việt Nam về hai quần đảo Hoàng, Trường Sa ở đâu? Nhà nước Việt Nam, chỉ qua mồm tên Lê Dũng, cái máy nói của đảng: “Việt Nam có đủ bằng cớ rằng hai đảo đó là của Việt Nam”. Chấm hết.
Dân kêu cứu, Huyện đẩy lên tỉnh, Tỉnh đẩy lên trung ương. Trung ương bảo: “Ngư dân nhất định không được trao tiền chuộc. Thử coi mấy đồng chí Cộng sản Trung Quốc vừa là anh em nhốt người được bao lâu cho biết. Lỡ ra chết người thì thúi đất Tàu rồi cũng phải trả xác về thôi!”.
Lại cũng tên phát ngôn Lê Dũng: “Việt Nam đã gửi công hàm cho phía Trung Quốc yêu cầu phải thả ngay ngư dân Việt Nam ra”. Chấm hết.
Hải quân anh hùng nước Xã Nghĩa Việt cộng bỗng chốc biến mất tăm, mất dạng không thấy được một cái nón cối gắn sao vàng nào ló ra biển! Hay là “bộ đội anh hùng ta” đang bận lên rừng chặt tre để đan thuyền thúng đặng bơi ra biển lớn rồi chăng? Hãy chờ xem những màn hát hay của “đỉnh cao trí tuệ loài người” Bắc Bộ phủ diễn tuồng!
Về phía Trung Quốc, những tấm hình chụp được cho thấy ngư dân Việt Nam đang quì lạy van xin tha mạng rất khốn khổ, khốn nạn, còn đám thủy thủ Trung Quốc đứng ở mũi tàu, tụt quần, đưa “Bác Hồ” (Cẩm Đào) đầu hói bóng lưỡng ra cho Lê Dũng xem thay vì câu trả lời.
Đảng lại còn có sáng kiến mách nước cho dân Quảng Nam Đà Nẵng phương cách tối ưu: “Ngư dân hãy hỗ trợ nhau để bảo vệ an ninh cho mìmh”.
Bố khỉ! Cả một quân đội hùng hậu lẫn công an gấu hơn chó săn hơn cả triệu, xưng là anh hùng mà co đầu rút cổ trước sự lấn áp của giặc lại đi khuyên dân phải tự cứu. Thật là cái Nhà nước chết tiệt không biết nhục là gì. Chỉ giỏi tài hiếp đáp dân trong nước.
Cái tính chất khiếp nhược, hèn hạ bẩn thỉu của đám lãnh đạo Hà Nội xét ra còn thua xa tư cách của mấy mụ tú bà ở xóm động Gò Vấp hay Ngã ba Chú Ía thủa xưa.
Mỗi lần mấy “chị em ta” bị bọn làng chơi bạo hành quần cho đứ đừ, mệt lữ cò bợ thì vội kêu cứu ới ới với “Má Tú”:
– Má ơi cứu con với! Thằng khốn nạn nó hành con mệt sắp chết rồi!
thì được “Má mì” khuyên lao:
– Ráng đi con! Má lấy tiền lỡ rồi!
Liền đó “Má mì” chạy đi múc một thau nước lạnh dội lên mái nhà làm phép cho “thằng khốn nạn” bên trong hạ hỏa bớt để cứu con gái mình.
Nay ngư dân bị bọn Tàu ô giết, bắt giam, đòi tiền chuộc mỗi người cả trăm triệu, tiền đâu mà chuộc, vợ con phải kêu cứu với đảng với Nhà nước. Tình cảnh cũng giống như “chị em ta” bị bạo hành kêu cứu Má mì thì bọn chóp bu Hà Nội đã không những không một lời an ủi giúp đỡ, hay có hành động gì tích cực giải cứu mà ngược lại còn chạy theo bợ đỡ, nịnh hót, nâng bi, đội đĩa quân cướp Tàu ô một cách trơ trẽn:
Ngày 12 tháng 6, cái tháng ngư dân lâm nạn nặng nề, thì Tổng bí thư họ Nông long trọng tiếp rước đoàn đại biểu đảng CSTQ tại Trụ sở Trung ương đảng CSVN, kính cẩn lên tiếng “cám ơn sự giúp đỡ to lớn mà đảng, nhân dân TQ đã dành cho VN”…
Cũng trong tháng 6 đó, Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng, khi tiếp Đại sứ Tôn Quốc Cường TQ, đã ca tụng “tình hữu nghị truyền thống giữa hai đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Việt-Trung là tài sản quí báu, cần hết sức gìn giữ và không ngừng phát huy mạnh mẽ…”
Thủ Tướng Ba xạo Nguyễn tấn Dũng cũng không chịu lép phần nịnh bợ, ve vuốt bọn Tàu phù để lấy điểm khi trả lời tờ South China Morning Post, bày tỏ hy vọng rằng “VN và TQ hoàn toàn có khả năng giải quyết tranh chấp âm ỷ về lãnh hải”.
Lại thêm trò hề lố bịch của Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm vâng lệnh Chủ tịch nước Nguyễn minh Triết đem Huân chương Lao động hạng nhì ban thưởng cho ông Vũ Dũng hiện là đại sứ VN tại LHQ vì “đã có nhiều sáng kiến, tìm tòi giải pháp, đi đến kết thúc đàm phán và hoàn thành việc phân giới cắm mốc, giữ vững chủ quyền lãnh thổ”.
Thật không còn gì trân tráo, dơ dáng dại hình cho bằng!
Bao nhiêu vụ việc bọn công nhân Tàu nhập lậu, ngang ngược rượt đánh dân chúng Việt Nam công khai, còn tự tiện bắt giữ người trước con mắt ếch trơ ra của công an địa phương chẳng dám ra can thiệp. Còn nỗi xấu hổ nhục nhã nào bằng!
Thậm chí, một tên Tham tán Kinh tế – Thương mại quèn của Đại sứ quán Trung quốc Việt Nam, Hồ Tỏa Cẩm cũng có quyền lên tiếng “nhắc nhở” chính quyền Việt Nam về việc báo chí phê bình, chỉ trích chất lượng hàng hóa Trung Quốc và yêu cầu Việt Nam khuyến cáo, trừng phạt những tờ báo này.
Chưa hết, tên Tỏa này còn trịch thượng, phách lối khi tỏ ra không hài lòng hai chuyên gia kinh tế của Việt cộng là bà Phạm chi Lan và ông Nguyễn Minh Phong là “thiếu tinh thần hữu nghị” đã có những phát biểu về chính sách kinh tế của Tàu. Và hắn ta còn dự tính sẽ dạy cho Việt Nam biết cách làm báo trong tương lai nữa.
Trước sự việc Nhà nước Việt cộng răm rắp tuân lệnh “đồng chí Tỏa” vội vàng khuyến cáo và răn đe những tờ báo dè biểu chất lượng hàng hóa của Trung Quốc, khiến người ta nhớ lại năm 2007, lúc nửa đêm chính quyền Trung Quốc đã “vời” đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc đển để trách mắng vì để báo chí trong nước chỉ trích chất lượng hàng hóa Trung Quốc.
Sau đó người dân trong nước đọc báo thấy vừa rất buồn cười vừa rất tủi nhục khi đọc những dòng chữ: hàng hóa có độc tố không biết xuất xứ, thực phẩm độc hại của “nước ngoài”, hay mạnh dạn hơn, “hàng bên kia biên giới”… chứ không dám viết đến chữ “của Tàu” và người ta tự hỏi:
– Tại sao một nhân viên ngoại giao tép riêu chỉ giữ vai trò Tham tán kinh tế trong Đại sứ quán của một quốc gia lại có oai quyền to đến như thế ?
Không cần phải có câu trả lời, ai ai cũng thấy rõ rằng cái gọi là đảng và Nhà nước Cộng hòa xã nghĩa đã hoàn toàn bị bọn Tàu phù Bắc kinh nắm đầu xâu tóc, xỏ mũi điều khiển tất tần tật từ khuya rồi. Bất cứ tên Tàu phù nào cũng có quyền ra lệnh hoặc sỉ vả, mắng nhiếc cái đám thái thú cả. Cái thân bán nước cầu vinh thì còn tư cách gì mà không tuân phục, vâng lời ông chủ lớn?
Đó là cái nhục không gì rữa nổi của bọn cộng sản Việt Nam bán nước hại dân.
Đọc lại lịch sử nước nhà, xưa cũng đã từng có những kẻ phản quốc cõng rắn cắn gà nhà, mãi quốc cầu vinh như Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống… đã làm cho nhân dân ta bị đô hộ cực khổ điêu đứng muôn phần, nhưng chưa hề thấy có ai lại chịu nhục, chịu hèn như bè lũ Hồ chí Minh và đám hậu duệ Mạnh, Triết, Dũng như bây giờ.
Từ chuyện rạp đầu dâng ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, đến khom lưng hiến biển Đông, dâng cúng hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, triều cống luôn 4 tỉnh Tây nguyên, xem như toàn bộ lãnh thổ, lãnh hải của Việt Nam hoàn toàn thuộc vào chủ quyền Trung Quốc rồi.
Đáng buồn, đáng hận, đáng tiếc thay cho Mẹ Việt Nam đến thời mạt vận đã sản sinh ra loài quĩ dữ, sản sinh ra những đứa con đại bất hiếu không kính trọng tổ tiên ông bà lại đi tôn thờ những kẻ ngoại lai với tà thuyết cộng sản, đành tâm đem giang sơn đất nước của mình cho ngoại bang là Tàu ô, kẻ thù tham tàn, bạo ngược, không đội trời chung của dân Việt suốt hơn 4 ngàn năm nay chỉ để đổi lấy cái phú quí cho riêng mình nhưng chắc gì đã giữ được cái của cải nhơ nhớp đó?
Giờ thì hai năm đã rõ mười, tập đòan Hồ Chí Minh đã rắp tâm bán nước để cầu vinh từ lâu thế mà từ trước đến giờ vẫn khéo che giấu, ngụy biện dưới khẩu hiệu mị dân “yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội”.
Cái gọi là nước Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam giờ đây đã thực sự hiện nguyên hình là một chư hầu, một tỉnh của Tàu hay một Tây Tạng thứ hai không còn chối cãi vào đâu được nữa.
Trích dẫn1 đoạn trong tài liệu họp mật của đại diện Tổng cục tình báo Hoa Nam và Tổng cục 2 Việt Nam để chứng minh chúng cấu kết với nhau từ lâu::
“Việc Vn trở về với tổ quốc Trung Hoa vĩ đại, là việc trước sau sẽ phải đến. Không sớm thì muộn, mà sớm thì hơn muộn. Trong lịch sử, Vn từng là quận huyện của Trung Quốc, là một nhánh của cây đại thụ Trung Hoa. Trung Quốc và Vỉệt Nam là một. Đó là chân lý đời đời. Đó cũng là lời của Hồ đồng chí (Hồ chí minh). Trong lễ tuyên thệ gia nhập đảng cộng sản Trung Quốc. Hồ đồng chí tôn kính còn dạy: “ Trung Quốc, Việt Nam như môi với răng, môi hở thì răng lạnh” Có nghiã là hai nước, là hai bộ phận trong cùng một cơ thể. Nông đồng chí (Nông Đức Mạnh) từng tự hào nhận mình là người Choang (Zhuang) trong cuộc gặp gỡ cac đại biểu trong Quốc Vụ viện. Mà dân tộc Choang là gì? Là một bộ phận của đại gia đình các dân tộc Trung Quốc.

Cái tội bán nước, luật pháp Việt Nam từ xưa đã định tội gião hình. Không phải chỉ cá nhân kẻ phản quốc, bán nước chịu hình phạt mà cả cửu tộc cũng bị lây họa sát thân.
Rồi đây, chín đời của ba dòng họ Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng sẽ bị gia hình để trả món nợ già Hồ đã làm khổ dân tộc hơn 60 năm.
Sử Việt sang trang qua giai đoạn đen tối này về sau sẽ chép:
Tháng 4 năm 2010 tức tháng Kỷ Mão, năm Canh Dần Âm Lịch, chế độ tàn bạo, phi nhân Cộng sản Việt Nam của triều đại Hồ Chí Minh trãi qua 65 năm cai trị sắt máu, hung hãn đã bị sụp đổ. Tập đoàn bán nước của Bắc Bộ phủ đều bị dân oan khắp nước căm hờn, phẩn nộ lâu ngày đã “tự phát” vùng lên, kéo vào tận dinh lũy của chúng, xử chết.
Xác bọn chúng bị nhân dân quăng ra ngoài đồng nội hoang dã cho kên kên, quà qụa mổ mắt, rỉa thịt để đền tội.
Chế độ cộng sản, một thứ ôn dịch, một đại họa của nhân loại, cáo chung từ đó.

Nguyễn Thanh Ty
08/8/09

August 22, 2009 Posted by | Bài báo hay, Bình luận, Chính trị | Leave a comment

Lại chuyện “cúi đầu nhận tội”!

VietCatholic News (20 Aug 2009 07:15)
Bản tin thời sự 19 giờ tối qua 19/8/09 trên VTV chắc lại sắp ‘hâm nóng’ các diễn đàn mạng về đề tài “cúi đầu nhận tội xin đảng khoan hồng”.

Sau khi bị bắt chỉ vài ngày Ls.Lê Công Định đã “hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ” này. Còn tối qua là đến lượt các anh Nguyễn Tiến Trung, Trần Lê Huỳnh Thức và Cựu sĩ quan quân đội Trung tá Trần Anh Kim.

Vừa ăn cơm tối vừa theo dõi thời sự một cách lơ đãng vì chẳng thấy hứng thú gì với tin tức ‘lề phải’, bỗng sự lên giọng của cô xướng ngôn viên ra vẻ khoe thành tích “sớm đưa vụ án xâm phạm an ninh quốc gia ra xét xử” khiến tôi quên cả chén bát chăm chú nhìn vào màn hình.

Chắc lại có chuyện ‘chẳng lành’ sắp đổ ập xuống đầu ai đó, chẳng nhẽ … còn đang suy nghĩ lung tung đã thấy Thạc sĩ Tin học Nguyễn Tiến Trung xuất hiện trên màn ảnh truyền hình và sau đó là đến lượt các anh Trần Huỳnh Duy Thức, Trần Anh Kim.

Tưởng rằng thêm ba nhân vật chính còn lại của đợt bắt bớ vừa qua như vậy đã là đủ ‘ê-kíp’ để bản tin khép lại, nhưng thật bất ngờ một lần nữa Ls.Lê Công Định cũng lại có mặt.

Nhưng khác với lần ‘nhận tội’ trước, lần này anh chỉ xuất hiện trong chốc lát nói dăm ba câu. Có vẻ như ý đồ của các đạo diễn là muốn dùng Ls.Định, nhân vật ‘sáng giá’ nhất của cả nhóm là người cuối cùng đứng ra hạ màn vở tuồng ‘nhận tội’, rằng “những gì quí vị vừa được nghe đều là đúng sự thật đấy!”

Khi còn nghĩ ngợi gì thêm về sự xuất hiện của anh thì thắc mắc ấy liền được giải đáp khi nghe Ls.Định nêu đích danh nhiều nhân vật ngoại giao Mỹ mà anh có quan hệ và còn nói rõ họ ủng hộ việc làm của anh, kể cả ông Thứ trưởng Ngoại giao thứ nhất John D.Negroponte chỉ đứng sau bà Hilary Clinton chẳng chút nể nang nào hết.

Không còn nghi ngờ gì nữa, việc ‘tố cáo’ người Mỹ ‘giật dây’ mới chính là chủ đích của bản tin tối qua chứ không còn là chuyện nhận tội xin khoan hồng.

Phải chăng Hà Nội lại mới có thêm sự ‘không hài lòng’ nào đó về Hoa Kỳ, hay sự ‘lên giá’ của VN trong quan hệ với Mỹ thời gian gần đây trước những đe dọa của TQ ngoài biển Đông đã khiến, Hà Nội nói năng chẳng cần kiêng cữ?

Dẫu sao thì so với những thước chiếu Ls.Đinh hồi tháng 6, qui trình ‘nhận tội’ nay cũng đã có những bước ‘tiến bộ’.

Lần ấy, việc một trí thức như Ls.Định mà tay phải cầm giấy để nhận tội đã bị dư luận đặt câu hỏi cho rằng anh bị ép phải đọc những gì do người khác viết? Còn tối qua, màn trình diễn của 3 ‘diễn viên’ Tiến Trung, Duy Thức và Anh Kim đã tỏ ra ‘chuyên nghiệp’ hơn.

Cả ba người không ai cần đến bất cứ mảnh giấy nào mà vẫn nói vo ngon lành. Nhưng có để ý mới thấy các nội dung đều có chung một ‘công thức’. Đó là sau khi thuật các hoạt động ‘phạm pháp’ của mình theo trình tự thời gian, tất cả đều kết thúc bằng một câu nghe rất… ‘có hậu’ “xin nhà nước khoan hồng để được trở về cùng gia đình …”.

Anh Trần Huỳnh Duy Thức là người trình bày dài nhất, chiếm khoảng 1/3 thời lượng dài cỡ 15 phút của bản tin này.

Sự ăn nói ‘trơn tru’ như thể rất có thể sẽ lại khiến thiên hạ đặt câu hỏi liệu họ phải học thuộc lòng trước khi ‘trả bài’?

Khách quan theo tôi cũng không loại trừ khả năng này, hoặc ít nhất cũng là họ phải thuộc được cái sườn bài được duyệt trước khi xuất hiện trước ống kính.

Cái cảnh miệng đọc trong lúc mắt nhìn cố định về một hướng phía trước như trên màn ảnh tối qua, cũng rất có thể trước mặt họ là tấm bảng ghi sẵn ‘những điều cần phải nói’ cũng nên?

Có một chi tiết rất đáng chú ý là trong lúc Nguyễn Tiến Trung ‘nhận tội’, các nhà quay phim đã cố tình quay cận cảnh hai bàn tay không anh đang xoa đan vào nhau vài giây để trình chiếu cho chúng ta xem.

Bàn tay Trung có gì đặc biệt để khiến mấy ‘bác’ quay phim phải chú ý? hay họ cho rằng chi tiết này là biểu hiện của tâm trạng bối rối, và vì thế họ chộp lấy đưa ra cho khán giả thấy để họ tin rằng sự ‘hối lỗi’ của Nguyễn Tiến Trung là có thật?

Theo chúng tôi thì qua cách nói năng từ tốn và mạch lạc của Trung có thể phủ nhận giả thuyết bối rối này.

Nhưng dường như ý đồ chèn cảnh này vào là để muốn thanh minh cho lần ‘sơ xuất’ cầm giấy đọc trước đây với Ls.Định, rằng quí vị thấy đấy chúng tôi có ép ai đọc đâu, các anh ấy tự nhận tội đấy!

Quả là đáng khâm phục sự chu đáo của các nhà đạo diễn với màn trình diễn ‘nhận tội’ mà VTV vừa chiếu tối qua.

“Những thước phim này biết đâu sẽ đi vào lịch sử” chú em tôi sau khi xem xong đã buột miệng!

Riêng tôi vẫn thắc mắc không hiểu vì sao Csvn lại tạo cơ hội cho cả nhóm thoải mái quảng bá dân chủ bằng chính phương tiện truyền thông của đảng. Như việc đoạn Ls.Định nói về sự cần phải có sự độc lập của tòa án trong xét xử mà bất cứ ai nghe cũng thấy là anh nói quá đúng.

Hoặc anh Trần Huỳnh Duy Thức công khai nói về thời ‘mạt vận’ của chế độ đã đến vào năm suy (2010) và năm tận (2020) như trong các bài viết trên blog Trần Đông Chấn v.v…

Rõ ràng toàn là những lời lẽ chẳng đem lại chút lợi lộc gì cho chế độ !

‘Thấy thế, nghe thế, biết thế và xin… chấm hết’ theo chúng tôi đó là cách ứng xử tốt nhất lúc này. Bởi ngay cả khi chúng ta đang được chút thoải mái ngoài xã hội, gặp bao điều chướng tai gai mắt mà còn chưa dám nói lên sự thật những gì mình suy nghĩ, thì trách chi người đang bị ngồi trong tù !

Hãy lấy kinh nghiệm vụ tám giáo dân Thái Hà từng bị vu oan trắng trợn “cúi đầu nhận tội” ra mà suy xét sự việc.

Sàigòn, 20/8/2009

Alfonso Hoàng Gia Bảo

August 21, 2009 Posted by | Bình luận, Chính trị | Leave a comment

Đinh Từ Thức – Kim Đại Trọng, độc tài và cộng sản

Trích Talawas’s Blog

Cựu Tổng thống Kim Đại Trọng (Kim Dae-jung) của Nam Hàn qua đời vào ngày 18 tháng 8 ở tuổi 83 với sự nghiệp cả đời đối diện độc tài và cộng sản. Do đấy, cuộc đời của ông là kinh nghiệm quý giá để biết rõ thêm về hai lực cản của tiến trình dân chủ.

Từng bị tù đầy, bắt cóc, suýt bị thủ tiêu, bị án tử hình rồi được bầu làm Tổng thống và được tặng Giải Nobel, cuộc đời của ông Kim Đại Trọng thăng trầm sôi nổi như truyện giả tưởng.

Trước hết là kinh nghiệm với độc tài

Xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo vào cuối năm 1925, Kim Đại Trọng bắt đầu tham gia chính trị khi là nhà báo ở lớp tuổi ba mươi, dưới thời chính quyền của Tổng thống Lý Thừa Vãn (Syngman Rhee). Trong lần ứng cử thứ năm, ông Kim đã đắc cử dân biểu Quốc hội năm 1961, nhưng ngay sau đó, tướng Phác Chính Hy (Park Chung-hee) làm đảo chính, giải tán Quốc hội, khiến ông mất chức. Lại đắc cử dân biểu dưới chế độ mới vào năm 1963, và tái đắc cử năm 1967, Kim Đại Trọng đã nổi tiếng nhờ thành tích chống chế độ độc tài của tướng Phác Chính Hy.

Nhưng chống độc tài mới chỉ giúp Kim Đại Trọng nổi tiếng tại địa phương. Chính những biện pháp đàn áp của độc tài đã giúp ông nổi tiếng trên bình diện quốc gia, và quốc tế.

Năm 1971, ông Kim đã nổi tiếng đủ để tranh cử Tổng thống, chống lại tướng Phác, và đạt được tới 46% tổng số phiếu. Ít ngày sau bầu cử, ông Kim đã bị mưu sát. Một chiếc xe vận tải lớn đã chèn cho xe ông bị lật, may ông chỉ bị thương, và thoát chết.

Ông Shim Jae-hoon, vốn là một nhà báo nổi tiếng của Nam Hàn nói: “Vốn liếng chính trị lớn nhất của ông Kim Dae-jong là sự kiện ông bị bách hại chính trị. Một số người cho rằng nếu không bị đàn áp dưới thời Tổng thống Park thì ông Kim chỉ là một nhân vật lãnh đạo của một vùng tương đối nhỏ mà thôi.”

Đây không những là kinh nghiệm cho người chống độc tài, mà còn là kinh nghiệm tốt cho độc tài. Đàn áp đối lập chính là dọn đường cho đối thủ sớm thay thế mình.

Chính ông Kim Đại Trọng đã nói qua bài diễn văn trong dịp nhận Giải Nobel Hòa bình ngày 10 tháng 12 năm 2000, tại Oslo:

Năm lần tôi đã gần chết vì bàn tay của độc tài, bị tù sáu năm, và bốn mươi năm bị quản thúc tại gia hay lưu vong và bị canh chừng thường trực…

Vào tháng Tám năm 1973, trong khi đang lưu vong tại Nhật Bản, tôi đã bị nhân viên tình báo của chế độ quân phiệt Nam Hàn thời đó bắt cóc từ căn phòng khách sạn ở Tokyo. Tin tức gây chấn động thế giới. Các thám tử mang tôi lên thuyền đậu ở bờ biển. Họ trói tôi, bịt mắt tôi, và nhét giẻ vào miệng tôi.

Đúng lúc ông Kim sắp sửa bị ném xuống biển, thì có một chiếc máy bay nhỏ xẹt ngang qua. Đám mật vụ của Phác Chính Hy có lẽ sợ Hoa Kỳ đã biết rõ mọi việc, nên ngừng tiến hành tội ác. Năm ngày sau, Kim Đại Trọng bị ném về trước cửa nhà mình ở Hán Thành (Seoul), mình đầy thương tích, rồi bị quản thúc tại gia trong nhiều năm.

Kim Đại Trọng gặp ký giả sau vụ bắt cóc năm 1973

Chế độ Phác Chính Hy lập kế hoạch cho mật vụ (KCIA) ám hại Kim Đại Trọng, nhưng sáu năm sau, chính kẻ đứng đầu mật vụ lại ám sát Phác Chính Hy vào tháng Mười năm 1979.

Hết độc tài Phác Chính Hy, cuộc đời nhà dân chủ Kim Đại Trọng chưa kịp trở lại bình thường, Nam Hàn lại nằm dưới bàn tay sắt của độc tài Chun Doo-hwan. Trong cuộc biểu tình chống độc tài năm 1980 tại Kwangju, Tướng Chun Doo-hwan gửi xe tăng tới đàn áp, hạ sát hai trăm sinh viên. Kim Đại Trọng bị truy tố về tội phản quốc. Theo lời ông:

Năm 1980, tôi bị chế đội quân phiệt kết án tử hình. Sáu tháng trong tù, tôi chờ đợi ngày bị hành hình. Thỉnh thoảng, tôi rùng mình sợ chết. Nhưng tôi bình tĩnh trở lại vì lịch sử đã chứng tỏ là công lý cuối cùng sẽ thắng. Tôi đã, và vẫn còn là người ham đọc lịch sử. Tôi biết rằng mọi thời, mọi nơi, ai sống cuộc đời ngay thẳng cung hiến cho dân tộc và nhân loại có thể không chiến thắng, có thể gặp chuyện khủng khiếp trong đời, nhưng sẽ toàn thắng và vinh dự trong lịch sử; kẻ thắng bằng bất công và đàn áp hôm nay, nhưng lịch sử sẽ luôn luôn kết tội họ là kẻ thất bại đáng xấu hổ. Sẽ không thể có ngoại lệ.

Do sự can thiệp của Giáo hoàng John Paul II, án tử hình của Kim Đại Trọng đã được đổi thành chung thân, rồi 20 năm tù. Năm 1982, Tổng thống Reagan đã can thiệp để ông Kim sang Mỹ, ngụ tại Boston và dạy ở Harvard. Đúng với niềm tin của mình vào lịch sử, năm 1985 ông Kim đã trở về, ứng cử lần thứ tư và trở thành Tổng thống năm 1998. Còn Chun Doo-hwan bị tù vì tham nhũng và tội đã ra lệnh tàn sát dân lành tại Kwangju.

Kim Đại Trọng trong lễ tuyên thệ nhậm chức Tổng thống 1998

Khác với nhiều lãnh tụ chính trị Á châu, Kim Đại Trọng đã có cái nhìn rất tích cực về dân chủ và nhân quyền, không phải trong thời gian vận động dân chủ, mà ngay khi đang cầm quyền. Ông nói trong diễn văn nhận Giải Nobel năm 2000:

Trong những thập niên tranh đấu dân chủ, tôi thường xuyên phải đối diện với phản bác rằng dân chủ kiểu Tây phương không hợp với châu Á, rằng Á châu thiếu gốc rễ. Đây là điều xa sự thật. Rất lâu trước Tây phương, việc tôn trọng nhân phẩm tại Á châu đã bao gồm trong hệ thống tư tưởng, và truyền thống trí thức nêu cao quan niệm “người dân” đã có gốc rễ. “Dân là trời, ý dân là ý trời. Coi dân như trời”. Đó là tôn chỉ chính yếu trong tư tưởng chính trị của Trung Hoa và Triều Tiên từ ba ngàn năm trước. Năm thế kỷ sau tại Ấn Độ, Phật giáo đã truyền bá điều cực kỳ quan trọng cho phẩm giá và quyền mỗi người như một nhân sinh.

Lại còn có tư tưởng và chủ trương đặt nhân dân trên hết. Mạnh Tử là môn đệ của Khổng Tử nói: “Vua là con trời. Trời sai vua phục vụ dân theo luật công chính. Nếu vua thất bại và áp bức dân, dân có quyền thay mặt trời mà loại vua”. Điều này đã có hai ngàn năm trước khi John Locke trình bày thuyết khế ước xã hội và chủ quyền dân sự.

Tại Trung Hoa và Triều Tiên, phong kiến đã bị lật đổ, thay bằng quận huyện trước Thiên chúa giáng sinh, và những kỳ thi tuyển lựa người làm quan đã có hàng ngàn năm. Việc cai trị của vua và các quan được theo dõi bởi hệ thống kiểm tra vững mạnh. Tóm lại, châu Á phong phú về trí thức và cơ sở truyền thống có thể cung ứng mảnh đất mầu mỡ cho dân chủ. Cái mà châu Á không có là những tổ chức đại diện cho dân chủ. Kỳ tài của Tây phương là đã tạo ra những tổ chức, một thành tựu đáng kể giúp cho lịch sử nhân loại tiến lên.

Được mang vào những nước Á châu có gốc rễ sâu đậm tôn trọng người dân, hình thức dân chủ Tây phương đã được phỏng theo và vận hành tốt đẹp, như có thể thấy tại Đại Hàn, Nhật Bản, Phi Luật Tân, Nam Dương, Thái Lan, Ấn Độ, Bangladesh, Nepal và Sri Lanka. Tại Đông Timor, người dân đi bỏ phiếu cho nền độc lập của mình, bất chấp sự đe dọa tính mạng từ đám binh sĩ dã man. Tại Miến Điện, bà Aung San Suu Kyi vẫn lãnh đạo cuộc tranh đấu dân chủ. Bà vẫn được sự ủng hộ rộng rãi của dân chúng. Tôi hoàn toàn tin tưởng rằng, tại đó, dân chủ cũng sẽ thắng và một chính quyền đại diện dân sẽ được phục hồi.

Kim Đại Trọng nhận Giải Nobel năm 2000

Kinh nghiệm với cộng sản

Ngoài việc nỗ lục phục hồi kinh tế Đại Hàn trong lần khủng hoảng trước, Kim Đại Trọng hầu như đã để cả nhiệm kỳ chú tâm vào việc hòa giải với cộng sản Bắc Triều Tiên. Ông đã đoạt Giải Nobel Hòa bình nhờ nỗ lực này, nhưng ngoài kết quả nhất thời, cố gắng của ông đã không đem lại hậu quả lâu dài.

Kim Đại Trọng và Kim Chính Nhật tại Bình Nhưỡng năm 2000

Trong bài báo nói về sự nghiệp của Kim Đại Trọng ngày 18 tháng 8, 2009, tờ New York Times viết rằng:

Ông đã dùng phần lớn năng lực của mình để tạo hòa giải với Bắc Triều Tiên, thực hiện niềm tin của đời mình là Nam Hàn có thể thúc đẩy miền Bắc tiến tới chỗ cởi mở, giảm bớt căng thẳng và cuối cùng tới thống nhất bằng cách trước hết hội nhập kinh tế từng giai đoạn với cung cấp viện trợ và đầu tư.

Thời gian tốt đẹp nhất đã tới vào tháng Sáu năm 2000, khi Kim Chính Nhất (Kim Jong-il) ôm ông tại phi trường Bình Nhưỡng (Pyongyang) và hướng dẫn ông qua Thủ đô Cộng sản, nơi hàng trăm ngàn người mặc đẹp như ngày lễ hội được huy động cầm hoa vẫy chào vị khách từ miền Nam.

Tuy nhiên, ông Kim [Đại Trọng] đã trải qua những tháng cuối cùng của nhiệm kỳ trong vẻ giận dữ. Nhà lãnh đạo Bắc Triều Tiên đã không giữ lời hứa viếng đáp lễ Hán Thành (Seoul). Ông ta cũng không từ bỏ chương trình hạt nhân. Hai trong các người con của ông Kim [Đại Trọng] bị vào tù vì tham nhũng. Và một điều tra viên đặc biệt được quốc hội ủy thác đã khám phá chính quyền của ông Kim [Đại Trọng] rót vào Bắc Triều Tiên tới 500 triệu [đô la] qua những thỏa hiệp kinh doanh mờ ám không lâu trước cuộc họp thượng đỉnh năm 2000, khiến phía đối lập cáo buộc rằng ông đã “hối lộ” lãnh tụ cộng sản để tạo cơ may trúng giải hòa bình.

*

Từ những kinh nghiệm của ông Kim Đại Trọng đối với độc tài và cộng sản, người ta thấy rằng:

Khi một chế độ độc tài bỏ tù một người bất đồng chính kiến vì lý do an ninh quốc gia, hay đem một người đối lập ra tòa xử tử hình về tội phản quốc, thì đó chỉ là cách lạm dụng quyền hành để trừng phạt. Còn người bị trừng phạt, chẳng hề làm gì phương hại tới an ninh quốc gia, cũng không hề phản quốc. Ngược lại, có thể đủ khả năng và tư cách đề làm Tổng thống.

Đối với cộng sản, hòa giải hay thương thuyết chỉ là cách lừa lọc để giành phần lợi về mình. Họ chỉ có thể bị thay thế, không thể sửa đổi hay cởi mở. Vì cởi mở hay cởi trói, dân sẽ chạy đi hết.

Ông Kim Đại Trọng đã thắng được độc tài, nhưng không cảm hóa được cộng sản. Vì cộng sản không thể cảm hóa.

© 2009 Đinh Từ Thức

August 20, 2009 Posted by | Bài báo hay, Chính trị, Xã hội | Leave a comment