Phi Vũ 3

Thương nhớ lắm quê hương vời vợi

Trung Quốc phô trương giàn khoan sẽ hoạt động ở Biển Đông

Theo RFI


Biển Đông nhìn từ Philippines.
DR
Trọng Nghĩa

Theo báo chí Trung Quốc, hôm thứ hai 23/05/2011, một giàn khoan dầu khổng lồ hoạt động ở vùng nước sâu đã được một xưởng đóng tàu ở Thượng Hải bàn giao cho Tập đoàn Dầu khí ngoài khơi quốc gia Trung Quốc (CNOOC). Theo giới lãnh đạo tập đoàn này, sau khi được thử nghiệm, giàn khoan sẽ được đưa xuống Biển Đông để bắt đầu hoạt động từ tháng bảy tới đây. Continue reading

May 26, 2011 Posted by | Trung Cộng và Biển Đông, Trung Cộng và các nước Đông Nam Á | Leave a comment

Trung Quốc có nguy cơ xung đột với các láng giềng để kiểm soát nguồn năng lượng

Theo RFI

Tàu tuần tra Trung Quốc tại vùng biển cách quần đảo Okinawa (Nhật Bản) 280 km. Ảnh do Hải quân Nhật chụp ngày 11/09/2010.
Reuters
Đức Tâm

Trong năm 2011, Trung Quốc sẽ tăng cường nhân sự và phương tiện để “áp dụng luật pháp và bảo vệ quyền lợi trong các vùng biển của Trung Quốc”. Theo giới phân tích, Bắc Kinh không chỉ muốn độc chiếm nguồn hải sản, mà còn muốn làm chủ các nguồn dầu lửa và khí đốt trong các vùng từ biển Hoa Đông cho đến Biển Đông. Hành động của Trung Quốc có thể làm xung đột bùng lên. Continue reading

May 3, 2011 Posted by | Trung Cộng và Biển Đông, Trung Cộng và các nước Đông Nam Á, Trung Cộng và Nhật Bản | Leave a comment

Đảng CS Trung Quốc Tuyên Bố: Sẵn Sàng Tiến Hành Chiến Tranh Để Bảo Vệ Lợi Ích Quốc Gia

Theo NguoiViet Boston
Một bài báo đăng trên một tạp chí của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã gọi những nỗ lực của Mỹ nhằm lấy lòng Ấn Độ và các nước láng giềng khác của Trung Quốc là “không thể chịu nổi”, đồng thời viết rằng Bắc Kinh phải gửi “tín hiệu rõ ràng” tới những nước này, nêu rõ Trung Quốc sẵn sàng tiến hành chiến tranh để bảo vệ lợi ích quốc gia. Continue reading

February 18, 2011 Posted by | Trung Cộng và các nước Đông Nam Á, Trung Cộng và thế giới | Leave a comment

Bắc Kinh hăm dọa láng giềng

Theo danchimviet.info
Bắc Kinh hăm dọa láng giềng

Một bài viết trên báo chính thức của Trung Ương Ðảng Cộng Sản Trung Quốc đe dọa các nước láng giềng, trong đó có nêu đích danh Việt Nam, rằng nếu liên kết với Mỹ để chống lại Trung Quốc thì sẽ bị tấn công. Continue reading

February 16, 2011 Posted by | Trung Cộng và Biển Đông, Trung Cộng và các nước Đông Nam Á | Leave a comment

Giáo sư Carl Thayer: Khối ASEAN Cần Thống Nhất và Đoàn Kết về Vấn Đề Biển Đông khi Đối Phó với Trung Hoa

Theo NguoiViet Boston

CarlThayerMâu thuẫn về chủ quyền khu vực Biển Đông vẫn tiếp diễn sau một loạt hội nghị của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 2010. Nhân sự kiện Chủ tịch Trung Hoa Hồ Cẩm Đào vừa có chuyến thăm Hoa Kỳ vào hạ tuần tháng 1, 2011 – chỉ vài tuần sau chuyến công du Á Châu và Trung Hoa của Tổng thống Barack Obama – Nhã Trân, Giám đốc Báo chí và Truyền thông của Nguyễn Thái Học Foundation, trao đổi về vấn đề Biển Đông với Gs Carl Thayer, chuyên gia nghiên cứu quân sự tên tuổi về Châu Á và Việt Nam, Giám đốc diễn đàn Nghiên Cứu Quốc Phòng Australia.

Nhã Trân: Gs nhận thấy thay đổi nào trong thái độ, hành xử của Trung Hoa gần đây, nếu có, về các tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông?

Gs Thayer: Thay đổi quan trọng nhất trong thái độ của Trung Hoa về vấn đề Biển Đông được nhận thấy sau sự can thiệp của Ngoại trưởng Clinton tại hội nghị Diễn đàn Khu vực ASEAN hồi năm ngoái. Sau khi bà lên tiếng rằng Hoa Kỳ mong muốn một giải pháp hòa bình cho các tranh chấp lãnh hải, Trung Hoa đã vội vã phục hoạt lại Nhóm Hợp tác ASEAN-Trung Hoa, đang trong tình trạng suy sụp, để khai triển văn kiện Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở Biển Đông (1).

Điều được khám phá mới đây là Việt Nam và Trung Hoa từng có bốn cuộc họp bí mật với nhau hồi năm ngoái để đàm phán về vấn đề Biển Đông. Trung Hoa đã nói rõ là vấn đề quần đảo Hoàng Sa không nằm trong các cuộc bàn thảo đó.

Hai bên đang gắng tìm đồng thuận về những nguyên tắc hướng dẫn các đàm phán về các vấn đề biển đảo. Tiến triển về vùng biển quanh Vịnh Bắc Việt có thể đạt được, nhưng chưa có dấu hiệu của bất cứ một diễn tiến khả quan nào từ phía Trung Hoa về các vấn đề Biển Đông.

Nhã Trân: Thế còn mối quan hệ chính trị – ngoại giao giữa các nước Đông Nam Á, Trung Hoa và Hoa Kỳ hiện có gì thay đổi, so với năm 2010, theo nhận định của ông?

Gs Thayer: Sự can thiệp của Ngoại trưởng Clinton là để đáp ứng những quan tâm về khu vực này trước sự quyết đoán của Trung Hoa

Trung Hoa đã phản bác bằng cách áp đặt sức ép ngoại giao lên từng nước trong Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), nhằm ngăn chặn không cho một sự đồng thuận bộc phát nhằm đối phó với Trung Hoa về các vấn đề biển đảo.

Các áp lực của Trung Hoa đã thành công, và các thành viên khối ASEAN đã phải bỏ ra ngoài bất cứ một đề cập nào về Biển Nam Trung Hoa trong bản tuyên bố chung được đưa ra sau Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN-US ở New York do Tổng thống Obama chủ trì.

Rõ ràng là vấn đề Biển Nam Trung Hoa sẽ bị xếp vào vị thế ít quan trọng hơn, vì Việt Nam hiện không còn là Chủ tịch Luân phiên của ASEAN nữa.

Mới đây Indonesia đã bày tỏ quan ngại rằng sự can thiệp của Hoa Kỳ và Nhật Bản vào vấn đề Biển Nam Trung Hoa có thể làm các đàm phán của ASEAN với Trung Hoa trở nên phức tạp hơn.

Nhã Trân: Đảng Cộng sản Trung Hoa mới đây ra một đạo luật về lãnh thổ, tuyên bố chủ quyền trên các vùng từng bị cai trị bởi Trung Hoa vào hàng trăm năm trước. Sự kiện này có thể là một mối quan ngại cho các nước này không?

Gs Thayer: Đây là một thí dụ khác về sách lược “nước chảy đá mòn” của Trung Hoa. Sự quyết đoán trong các yêu sách của Trung Hoa về biển đảo được thiết kế nhằm làm mòn mỏi các đối thủ. Sách lược này không có gì mới mẻ vì xưa nay Trung Hoa từng có những tuyên bố lịch sử như vậy. Thật sự, các tuyên bố chủ quyền của Trung Hoa đối với vùng Biển Đông không hề dựa trên luật pháp quốc tế mà chỉ dựa trên sự suy diễn riêng của Trung Hoa về lịch sử.

Nhã Trân: Lo ngại làm mất lòng Trung Hoa, một đối tác thương mại quan trọng, một số nước khu vực Châu Á – Thái Bình Dương lâu nay gắng tránh không can dự vào các tranh chấp lãnh hải ở Biển Đông. Có thể làm gì để các nước ấy vượt qua mối lo lắng này?

Gs Thayer: Năm ngoái có ba nước Đông Nam Á không hỗ trợ Việt Nam khi quốc gia này thúc đẩy ASEAN tìm một sự đồng thuận về vấn đề Biển Đông. Các nước này là Miến Điện, Campuchia và Thái Lan. Đây là ba quốc gia khác nhau.

Các áp lực của Trung Hoa có thể được khắc phục bởi những giải pháp, lựa chọn khác nhau. Campuchia cần đi vào thị trường Hoa Kỳ để bán các sản phẩm dệt may. Hoa Kỳ có thể tạo áp lực lên Campuchia để nước này thay đổi lập trường đối với vấn đề Biển Nam Trung Hoa, tuy nhiên xem ra Hoa Kỳ không thực hiện điều đó. Hoa Kỳ không có các biện pháp để áp lực Miến Điện. Lẽ ra Thái Lan là một đồng minh chính yếu của Hoa Kỳ tuy nước này không thuộc Khối Minh ước Bắc Đại Tây Dương (NATO). Tuy nhiên, nền chính trị quá mong manh của quốc gia này làm họ ít tham gia vào vấn đề Biển Nam Trung Hoa và ở thế đối nghịch với Trung Hoa.

Khối ASEAN cần giải thích cho chính các thành viên của mình rằng sự thống nhất và đoàn kết về vấn đề Biển Đông là một thành tố của sự cần thiết, lớn hơn, làm việc cùng nhau như một đơn vị hợp nhất, khi đối phó với Trung Hoa. Thế nhưng khối ASEAN vẫn còn lay hoay về sự đồng thuận, và không bó buộc các thành viên theo những quan điểm mà các nước đó không cảm thấy thoải mái.

Nhã Trân: Hoa Kỳ vừa lên tiếng mời đón Việt Nam tham gia vào các cuộc tập trận chung trên biển của hải quân Mỹ và các nước được mời bất cứ khi nào Việt Nam muốn, như cuộc diễn tập CARAT. Điều này có gây áp lực nào đối với Bắc Kinh không, khi mà Washington bằng mọi cách củng cố liên minh Mỹ-Việt như vậy?

Gs Thayer: Hoa Kỳ muốn phát triển việc tăng cường các mối quan hệ quốc phòng – khác biệt so với quan hệ của một liên minh – với Việt Nam, hầu có thể gây ảnh hưởng đối với Hà Nội về một số các vấn đề về an ninh khu vực, kể cả Trung Hoa. Nhưng mối quan hệ quốc phòng vẫn còn nằm trong giai đoạn kín đáo và tạo sự tin tưởng giữa hai bên. Ví dụ, Hoa Kỳ đã minh định rằng việc bán quân thiết bị liên quan đến việc cải thiện tình hình nhân quyền ở Việt Nam. Vậy là có những hạn định do phía Hoa Kỳ tự đặt ra. Việt Nam sẽ không cho phép mình bị lợi dụng trong bất cứ một sách lược nào của Hoa Kỳ để khống chế Trung Hoa. Việt Nam tìm cách đi hàng hai với cả hai thế lực này. Việt Nam e ngại sẽ phải trả giá cho các cấu kết của đôi bên.

Nhã Trân: Các Ngoại trưởng ASEAN và Trung Hoa dự định họp trong hai ngày 24 và 25 tháng 1, 2011 để bàn về việc lập một bộ luật ứng xử chung về Biển Đông, dựa trên bản Tuyên bố chung về Nguyên tắc Ứng xử trên Biển Đông năm 2002. Ông nghĩ các nước sẽ đạt một đồng thuận?

Gs Thayer: Nhóm Hợp tác chung ASEAN – Trung Hoa có thể đạt một vài tiến triển trong việc tiến tới việc thực hiện một Biện Pháp Xây Dựng Sự Tin Cậy (2) trong Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở Biển Đông. Nhưng nội quy hoạt động của ASEAN kêu gọi họ gặp gỡ và hình thành một sự đồng thuận trước khi nhóm họp với Trung Hoa. Trung Hoa phản đối điều này và muốn để có thể đàm phán song phương.

Bất đồng về quan điểm này có thể làm chậm lại tiến trình thực hiện Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở Biển Đông. Văn kiện Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở Biển Đông chỉ là bước khởi đầu của một Quy tắc Ứng xử Biển Đông (3) có tính pháp lý ràng buộc hơn. Khã năng là sẽ có vài tiến triển để chào mừng kỷ niệm một thập niên của văn kiện DOC vào năm 2012.

Một khi Việt Nam vẫn nhất định đưa quần đảo Hoàng Sa vào chương trình nghị sự và Trung Hoa tiếp tục từ chối, thì sẽ có rất ít tiến triển đạt được cho Quy tắc Ứng xử Biển Đông. Điều tốt nhất mà người ta có thể hy vọng về sự tiến triển là từng bước nhỏ nhoi và chủ yếu tượng trưng khi thực hiện Biện Pháp Xây Dựng Sự Tin Cậy của Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở Biển Đông.

Nhã Trân: Cảm ơn Gs về cuộc phỏng vấn hôm nay.

Chú thích:

(1) Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở Biển Đông: Declaration on Conduct of Parties in the South China Sea (DOC)

(2) Biện Pháp Xây Dựng Sự Tin Cậy: Confidence Building Measures (CBM)

(3) Quy tắc Ứng xử Biển Đông: Code of Conducts (COC)

24.1.2011
Nguyễn Thái Học Foundation

January 29, 2011 Posted by | Trung Cộng và Biển Đông, Trung Cộng và các nước Đông Nam Á | Leave a comment

Những tương tác chiến lược giữa Trung Quốc với ASEAN

Theo Tuanvietnam.net

Tác giả: Chien-peng Chung

Vai trò các tác nhân trong tranh cãi Biển Đông là gì?

 

Bên ngoài trò chơi hai tầng nấc? Vai trò của các tác nhân quốc gia, xuyên quốc gia và tác nhân dưới tầm quốc gia (subnational) trong các tranh cãi biển đảo ở Biển Đông là gì?

LTS: Trong Domestic politics, International Bargaining and China Territorial Disputes, NB RoutledgeCurzon, tác giả Chien-peng Chung đã đưa ra những ý kiến cho cách giải quyết các tranh chấp Biển Đông. Dù có những hạn chế nhất định thậm chí khó chấp nhận được, tài liệu cung cấp nhiều cái nhìn mới và những nguồn tham khảo quý giá, có thể dùng cho các bạn đọc thích tìm hiểu về Biển Đông- khu vực gắn liền với phát triển kinh tế biển của Việt Nam. Để rộng đường dư luận, Tuần Việt Nam giới thiệu bài dịch 4 kỳ tư liệu này của Lê Vĩnh Trương.

Giới thiệu: Các biểu hiện của trò chơi hai tầng của Trung Quốc trong các tranh cãi lãnh thổ tại Trường Sa, Hoàng Sa và các rặng san hô chìm dưới nước, các đảo san hô, các bãi cạn, các dải đá và đảo trong Biển Đông là gì? Tình cảm dân tộc của dân chúng, các quan tâm của giới chức, định hướng và thăng giảm thương mại, chiến lược của các nhà thương thuyết, các tác động khác nhau của chi phí và ích lợi của nhóm, các chế tài của cơ chế, và khả năng tái cấu trúc thể chế trong nước đã in đậm dấu ấn trong các tranh cãi về Điếu Ngư/Senkaku, Zhenbao/Damansky và Mc Mahon Line/Aksai Chin. Những nhân tố này sẽ khắc họa rõ nét nỗ lực của các nước liên quan trong việc giải quyết các vấn đề về chủ quyền ở các đảo tại Biển Đông. Sự mưu tìm thế chính danh cho chế độ, những nỗ lực của chính phủ trong việc xử lý các áp lực dân chủ hóa trong lòng các nước Đông Nam Á, tất cả đều được thể hiện với một sự nhạy cảm cao độ đối với an ninh quốc gia cùng với mối nguy phải bảo đảm chủ quyền lãnh thổ cho đất nước.

Hơn nữa, cuộc cạnh tranh ảnh hưởng giữa giới ngoại giao và giới quân sự Trung Quốc  trong quyết sách và phân bổ ngân sách cũng được soi rọi để rõ hơn các đường hướng tác động đến vị thế Trung Quốc tại Biển Đông. Biển Đông, đã vậy, lại còn bao gồm những con đường hàng hải chiến lược quan trọng và dưới lòng Biển Đông là những mỏ hydrocarbon tiềm năng. Thế nên chúng ta cần chú trọng đến các tác nhân xuyên quốc gia như các công ty dầu khí quốc tế hay các thể chế tạo dựng lòng tin đa phương cũng như các hoạt động của các tác nhân dưới tầm quốc gia (subnational) khi tác động đến chính giới hay các thương thuyết gia chính phủ trong ngăn ngừa xung đột hay giải quyết bất đồng.

Thật vậy, vai trò vun bồi hòa bình của các nhân tố xuyên quốc gia -những công ty và cá nhân đa quốc tịch hay các tổ chức phi chính phủ- trong các cuộc tranh cãi như thế này cần được nghiên cứu thấu đáo hơn trước (trong mối tương tác trong nước và ngoài nước).

Lược sử tranh chấp lãnh thổ

Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ các đảo trong Biển Đông; Malaysia và Philippines tuyên bố một phần quần đảo Trường Sa còn Brunei thì tuyên bố chủ quyền đối với một bãi đá chìm. Cả Trung Quốc và Đài Loan đều khẳng định có chủ quyền lịch sử và cho rằng các đảo tại Biển Đông là lãnh thổ của Trung Quốc từ thời thượng cổ theo các khai quật khảo cổ các đồng tiền cổ, mảnh gốm sứ và dụng cụ nấu nuớng được cho là do các ngư dân Trung Quốc để lại các nơi này.[1] Tuy vậy chỉ khi Thực dân Pháp đến Việt Nam khẳng định chủ quyền của họ ở các đảo này vào năm 1933 thì việc quản hạt mới có hiệu lực.[2]

Giữa khoảng thời gian 1939 và 1945 Hoàng Sa và Trường Sa bị Nhật Bản chiếm đóng và đã trở thành những căn cứ tàu ngầm. Sau khi Nhật Bản đầu hàng, một nhóm hải quân từ Trung Hoa Dân Quốc đã đến khảo sát Hoàng Sa và Truờng Sa và không lâu sau đó đã đóng trú đảo lớn nhất tại Truờng Sơn, đó là Taiping hay Itu Aba, sau đó họ rút ra Đài Loan sau thất bại của Quốc Dân Đảng[3].

Tuy vậy kể từ năm 1947 một đường hình chữ U đã xuất hiện trên các bản đồ vẽ tại Đài Loan và Trung Quốc, bao trùm một phần Biển Đông. Philippines thì tuyên bố chủ quyền đối với Truờng Sa dựa vào việc một công dân Philippines tên là Tomas Cloma phát hiện một đảo tại Trường Sa năm 1947 và dựa vào cơ sở ông đã tuyên bố đó là “Kalayaan” (Đất tự do) còn bản thân là nguyên thủ.[4]

Dù Toma Cloma đã chuyển chủ quyền của ông ta sang cho Philippines vào năm 1971 thì tuyên bố chủ quyền truớc đó của ông ta cũng đã kích thích Đài Loan chiếm đảo Taiping và Việt Nam Cộng Hòa khẳng định tuyên bố chủ quyền của họ trên Hoàng Sa và Trường Sa vào năm 1956.[5]

Vào tháng 9 năm 1973, Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa đã chiếm một số đảo của cả hai quần đảo nhưng sau đó để mất Hoàng Sa về tay Trung Quốc sau một cuộc chạm trán ngắn vào tháng 01 năm 1974. Nước Việt Nam thống nhất sau đó đã tiếp nối tuyên bố chủ quyền của Việt Nam tuy nhiên vị thế của họ đã bị thương tổn do sự ủng hộ của Bắc Việt trước đó đối với tuyên bố của Trung Quốc vào năm 1956 và 1958, dưới hình thức bức thư của thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi cho Quốc Vụ Viện Trung Quốc.[6]

Tuyên bố chủ quyền gần đây nhất với Biển Đông là của Malaysia vào năm 1979 và của Brunei vào năm 2000 dựa trên việc kéo dài thềm lục địa và trên cơ sở vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lí từ đó tính ra. Tuyên bố của Malaysia đã trùng toàn bộ lên phần tuyên bố của Brunei.

Khả năng khai thác dầu khí và sự can dự của các công ty dầu khí đa quốc gia

Khẳng định chủ quyền của Trung Quốc đối với Trường Sa lần đầu tiên diễn ra vào tháng 03 năm 1988, khi đó Hải Quân Trung Quốc đánh chìm ba tàu vận tải của Việt Nam và sát hại 72 binh sĩ Việt Nam trong một va chạm ngắn tại bãi Johnson.[7]

Từ đó trở đi quần đảo Trường Sa đã được phát triển thành một ngư trường quan trọng cho Trung Quốc, Việt Nam và Philippines, còn các thăm dò ở vùng biển lân cận cũng cho thấy các ước tính về trữ lượng dầu to lớn. Tất cả các quốc gia hiện đang tranh chấp tại Trường Sa đều là những nước đã ký kết Công Ước Liên Hiệp Quốc về luật biển lần 3 (UNCLOS III) vốn cho phép thiết lập một vùng đặc quyền kinh tế có bề rộng là 200 hải lí kể từ một vùng đất có người cư trú. Theo đó, biểu hiện chủ quyền sẽ cho phép người tuyên bố chủ quyền quyền cai quản hợp pháp và khai thác các tài nguyên năng lượng mà các nước này đang cần để tăng tốc phát triển kinh tế.

Hiển nhiên, lúc nào cũng không thiếu kỹ thuật để  khoan thăm dò độ sâu, dù trữ lượng và giá dầu thô sẽ là nhân tố quyết định mức nào đó thì có lãi được. Có một vùng đáy biển trong khoảng 1000 mét cận Truờng Sa, tại một vài nơi có đến 4000 dặm vuông nước chỉ nông dưới 200 mét mà thôi.[8]

Trong khoảng giữa thập kỉ 1990, OPEC đã ước tính rằng nhu cầu dầu lửa trên thế giới sẽ gia tăng lên 6.2 triệu thùng mỗi ngày giữa 1995 và 2000 trong đó Trung Quốc và các nước ASEAN sẽ sản xuất gia tăng 2.3 triệu thùng dầu mỗi ngày.[9] Do vậy, đối với các chính phủ địa phương và các công ty dầu khí lớn trên thế giới, Biển Đông có sức hấp dẫn và thách thức như một kho tàng đáy biển.

The China Geological Newspaper cho biết vào tháng 5/1989 rằng các khảo sát do Bộ Địa Chất và Khai Khoáng Trung Quốc đã cho thấy trữ lượng khoản 130 tỷ thùng (bb) dầu thô ở vùng lân cận Trường Sa.[10] Các số liệu ước tính của các công ty dầu khí nước ngoài thì thay đổi theo hướng ít lạc quan hơn.[11]Tuy nhiên ngay cả nếu con số thực tế đạt 1/10 số liệu của Trung Quốc dự báo, thì trữ lượng tiềm năng trong khu vực quần đảo tranh chấp cũng sẽ lớn hơn trữ lượng thực ở Biển Hoa Đông 12 bb, hay 9 bb của Hoàng Hải và Bột Hải cộng lại.[12] Trung Quốc đã trở thành một nước nhập khẩu dầu từ 1993. Nếu không tìm thấy nguồn dầu mới, số lượng thiếu hụt của nước này sẽ tăng đến 938 triệu thùng mỗi năm vào năm 2010.[13]

Do những hạn chế về tài chánh và những khó khăn kỹ thuật đối với khai thác dầu ở Trường Sa, đầu tư từ các nước phương Tây và các liên doanh giữa phương Tây với Trung Quốc hay các nước Đông Nam Á sẽ rất cần thiết trong tương lai gần. Tuy nhiên, việc tham gia của các công ty và quốc gia từ Mỹ , Nhật, Châu Âu nhằm khai thác dầu ngoài khơi Biển Đông, dưới dạng các tập đoàn thường gây ra tranh cãi nhiều bên. Nhiều công ty dầu không chỉ có các cuộc làm ăn với một vài bên tuyên bố chủ quyền, họ còn có liên hệ mật thiết với chính quyền chính nước họ nữa.

Những công ty này không hề muốn liên can vào một cuộc tương tàn khu vực y như chính quyền nước họ, là bên rồi sẽ phải miễn cưỡng nhúng tay vào để bảo vệ lợi ích công dân mình. Do vậy các công ty đa quốc gia này có khuynh hướng thiết lập quan hệ và kênh thông tin để ảnh hưởng ở cả chính giới nước mình và nước đầu tư nhằm tránh trường hợp xung đột gây hại đến lợi ích riêng của họ và lợi ích của ngành công nghiệp dầu khí nói chung. Xét về mặt này, các công ty dầu khí có thể có tác động tích cực lên Trung Quốc và các quốc gia có tuyên bố chủ quyền trong vùng để xác lập một vị thế hợp tác hơn nhằm bảo đảm một môi trường hòa bình thân thiện với đầu tư nước ngoài.

Tuy nhiên cũng có thể suy luận rằng họ có thể sẽ riêng rẽ kêu gọi các nước nhận đầu tư hỗ trợ họ tìm kiếm dầu khí bằng võ lực nếu có can thiệp từ bên ngoài, vì các thực thể đa quốc gia có ảnh hưởng và nguồn lực giải quyết hay châm dầu cho các tranh cãi nên thái độ và ứng xử của họ đối với các bên tuyên bố chủ quyền sẽ có sức nặng to lớn. Vào tháng 02 năm 1992, chính quyền Trung Quốc đã thông qua đạo luật lãnh hải chỉ đích danh Pratas, Hoàng Sa, Trường Sa, Macclesfield Bank là Đông Sa, Tây Sa, Nam Sa và Trung Sa, và vài đảo nữa là lãnh thổ Trung Quốc. Ba tháng sau đó họ ký một liên doanh với một công ty Mỹ, Crestone, để khai thác dầu tại một lô ngoài khơi phía Tây của Trường Sa. Trước phản đối của Việt Nam rằng việc khoan thăm dò là trên thềm lục địa của Việt Nam, các quan chức Trung Quốc đã trấn an Crestone nếu cần họ sẽ huy động toàn lực hải quân để hỗ trợ cho hợp đồng này.[14]

Việc lựa chọn một công ty Mỹ nằm trong kế hoạch tinh ranh của Trung Quốc để giảm thiểu khả năng Washington chống Trung Quốc chiếm thêm các đảo này. Họ mong rằng các công ty dầu khí của họ sẽ là bên hưởng lợi chính yếu đối với các dự án phát triển dầu khí do Trung Quốc khởi xướng trong vùng.

Cũng vậy nếu Mỹ can thiệp chống Trung Quốc, Mỹ sẽ phải phá hỏng vị thế và gia tăng bất trắc các nguy cơ cho các công ty dầu khí Mỹ  muốn làm ăn với Trung Quốc. Việc để cho các công ty nước ngoài can dự có thể là chiến lược ưu tiên của Bắc Kinh nhằm giữ lấy các tuyên bố vì lợi ích dầu hỏa và chủ quyền của họ ở Biển Đông. Giữa những năm 1979 hơn 3 tỷ USD ngoại viện đã được đầu tư vào các liên doanh tìm kiếm dầu khí giữa các công ty dưới sự bảo trợ của Tập Đoàn Dầu Khí Quốc Gia Trung Quốc (CNOOC) ở Biển Đông.[15] Giữa những năm 1995 và 1996, CNOOC đã ký kết hợp đồng với Chevron để thăm dò 3 lô nằm gần đảo Hải Nam và Hoàng Sa.[16] Tuy nhiên Trung Quốc không phải là quốc gia duy nhất có chiến lược kết hợp với công ty nước ngoài nhằm xác nhận tuyên bố chủ quyền ngoài khơi Biển Đông.

Những hoạt động của Trung Quốc đã khuyến khích Việt Nam, cũng là một nhà nhập khẩu dầu, mời thầu để phát triển các mỏ Thanh Long và Đại Hùng sát bên khu vực Crestone năm 1994[17]. Cho đến lúc đó, toàn bộ sản lượng dầu của Việt Nam đến từ một mỏ dầu ngoài khơi triển khai dưới sự giúp đỡ của Liên Xô vào những năm 1980. Phía Trung Quốc phản ứng rằng các mỏ dầu ấy đã khai thác trong vòng chủ quyền mà Trung Quốc tuyên bố tại Biển Đông. Đáp lại, Việt Nam phản bác rằng khu vực được nhượng cho Crestone là nằm trên thềm lục địa của mình. Vào tháng 7/1994, Trung Quốc đã phong tỏa một giàn khoan của Việt Nam tại khu vực Wan An Bei-21 mà Trung Quốc đã cho Crestone thuê ba tháng trước đó[18].

Năm 1995, sau khi Việt Nam đuổi một tàu khảo sát địa chấn của Trung Quốc ở khu Crestone, tàu chiến Trung Quốc đã phong tỏa một giàn khoan của Việt Nam tại khu vực Thanh Long mà Việt Nam đã giao cho một tập đoàn hai nước Mỹ và Nhật do Mobil chủ trì.[19] Vào tháng 4 năm 1996 khi công ty dầu khí Mỹ CONOCO  thương thảo với Việt Nam về các lô 133, 134, 135, trùng lắp lên lô Wanan Bei 21, Trung Quốc đã dọa sẽ trả đũa chống lại công ty chủ quản của CONOCO là Dupont hiện đang đóng tại Trung Quốc.[20] Sự hiện diện và can dự của các công ty dầu khí nước ngoài cho tới nay có vẻ như chỉ đổ thêm dầu vào lửa. Thật sự các công ty dầu khí nước ngoài cũng phải lo lắng vì họ sẽ trở thành con tin cho Trung Quốc và các nước trong vùng dùng họ để khuyếch trương thanh thế trên sóng Biển Đông.

Mặc dù Malaysia và Brunei đều đã có thể cơ bản tự túc về nhu cầu dầu hỏa, tiêu thụ nhiên liệu ở nội địa của họ đã tăng cao hơn mức sản xuất trong hai thập kỷ 1980 và 1990.[21] Tháng 7 năm 2002 công ty dầu khí quan trọng của Malaysia, Petronas đã phát hiện dầu hỏa ở đáy biển ngoài khơi Borneo trong khu vực tranh chấp với vùng đặc quyền kinh tế của Brunei. Petronas sau đó đã dành hai lô của khu vực cho một công ty con và Murphy Oil của Mỹ, trong khi đó thì Brunei thương lượng về quyền thăm dò với công ty Total của Pháp và Shell của Hà Lan cũng tại hai lô này.[22] Kết quả là tháng 3 năm 2003 Brunei đã phái một chiến thuyền đến đuổi tàu thăm dò của Murphy Oil ra khỏi khu tranh chấp và Malaysia trả đũa bằng cách gửi một tàu hải quân ra phong tỏa không cho tàu của Total vào.[23]

Những phát hiện như thế này có thể dẫn tới nhiều cuộc khảo sát mới ở vùng nước sâu của Đông Nam Á và cả Trung Quốc, do vậy sẽ liên quan đến các công ty dầu khí Phương Tây và mang các lợi ích và ảnh hưởng hệ quả dấn sâu vào tranh cãi. Liên quan đến tình hình dầu khí, Philippines là nước ở trong thế nghiệt ngã nhất, vì có 95% nhu cầu lệ thuộc vào nhập khẩu và vào những túi dầu không đáng kể theo ước tính của những đợt thăm dò ngoài khơi giữa Palawan và Trường Sa.[24] Thực tế Philippines lại là bên lên tiếng tích cực cho một giải pháp phát triển chung đối với Trường Sa.

Thật vậy, tổng thống và ngoại trưởng Philippines chính là những tác nhân tích cực đứng sau tuyên bố ASEAN về Biển Đông được thông qua tại cuộc họp thường niên của các ngoại trưởng ASEAN vào tháng 7 năm 1992, trong đó các quốc gia đồng ý các nguyên tắc cùng phát triển, giải quyết các bất đồng không bằng võ lực, và kiềm chế không đòi yêu sách thêm về lãnh thổ.[25]

Dù đã cùng ký kết với ASEAN tuyên bố trên nhưng Trung Quốc vốn ý thức về sự lớn mạnh trên thị trường và sức mặc cả của họ đối với các láng giềng Đông Nam Á và các công ty dầu khí nước ngoài nên họ đã thu mình lại không tham gia bất cứ thỏa thuận hợp tác nào mà họ biết các điều kiện kèm theo sẽ làm họ cảm thấy tiếng nói sẽ giảm thiểu.

Thủ tướng Lý Bằng đã phát biểu trong  một cuộc họp báo tháng 8 năm 1990 tại Singapore rằng Trung Quốc sẵn sàng gạt sang bên những vấn đề về chủ quyền để cùng các nước ASEAN khai thác nguồn lợi trên biển và dưới đáy biển xung quanh Trường Sa. Dù vậy, Trung Quốc vẫn tiến hành ký kết hợp đồng với các nước ngoài nhằm tìm kiếm dầu khí mà không có sự tham gia của các nước có yêu sách.


[1] Document of the Ministry of Foreign Affairs of the People’s Republic of China, China’s Indisputable Sovereignty over the Xisha and Nansha Islands (Beijing: Foreign Languages Press, 30 January 1980), 2-4.

[2] Marwyn S. Samuels, Contest for the South China Sea (New York: Methuen, 1982), 61-63.

[3] Samuels, Contest for the South China Sea, 76-77.

[4] Ibid., 81-82.

[5] Ibid., 84-86.

[6] Ministry of Foreign Affairs of the People’s Republic of China, China’s Indisputable Sovereignty over the Xisha and Nansha Islands, 17-19.

[7] Lee G. Cordner, “The Spratly Islands Dispute and the Law of the Sea,” Ocean

Development and International Law, 1994, vol. 25, 64.

[8] “First Deep-Water Oil Field in South China Sea Put into Production,” FBIS Daily Report, China, 12 June 1996, from Beijing Keji Ribao [Science and Technology Daily] in Chinese.

[9] OPEC Bulletin, May 1996, 16.

[10] Michael Leifer, “Chinese Economic Reform and Security Policy: The South China Sea Connection,” Survival, summer 1995, vol. 37, no. 2, 44.

[11] In 1988, United States geologists estimated reserves of 2.1 to 15.8bb of oil, while Russian estimates put the figure at 7.5bb of oil equivalents, 70 percent of which is probably gas resources. See Bruce Blanche and Jean Blanche, “Oil and Regional

Stability in the South China Sea,” Jane’s Intelligence Review, 1 November 1995, no. 7,513.

[12] In 1988, United States geologists estimated reserves of 2.1 to 15.8bb of oil, while Russian estimates put the figure at 7.5bb of oil equivalents, 70 percent of which is probably gas resources. See Bruce Blanche and Jean Blanche, “Oil and Regional Stability in the South China Sea,” Jane’s Intelligence Review, 1 November 1995, no. 7, 513.

[13] Liu Haiying, China OGP (Xinhua News Agency). http://www.chinaogp.online.com/ hottopic/ (accessed 4 July 2003). Conversion from the scale of metric tonnes to barrels is mine.

[14] Sanqiang Jian, “Multinational Oil Companies and the Spratly Dispute,” Journal of Contemporary China, 1997, vol. 6, no. 16, 598.

[15] China Daily, 19 December 1994, 6.

[16] “PRC: Oil Firm, Chevron Sign Oil Exploration Contract 16 May,” FBIS China, 16 May 1996, from Beijing XINHUA.

[17] Lee Ngok, “Fishing in Troubled Waters?: Chinese Strategic Considerations in South

China Sea,” American Asian Review, winter 1994, vol. XII, no. 4, 112.

[18] Craig Snyder, “The Implications of Hydrocarbon Development in the South China

Sea,” International Journal, winter 1996/1997, vol. LII, 142-158.

[19] Henry J. Kenny, “The South China Sea: A Dangerous Ground,” Naval War College

Review, summer 1996, vol. XLIX, no. 3, 97-98.

[20] Mark J. Valencia, “Asia, the Law of the Sea, and IR,” International Affairs, 1997, vol.73, no. 2, 270.

[21] Alice D. Ba, “China, Oil, and the South China Sea: Prospect for Joint Development,”American Asian Review, winter 1994, vol. XII, no. 4, 135.

[22] S. Jayasankaran and John Beth, “Oil and Water,” Far Eastern Economic Review, 3 July 2003, 17.

[23] Ibid.

[24] Ba, “China, Oil, and the South China Sea,” 132-133.

[25] Lee Lai To, “ASEAN and the South China Sea Conflicts,” Pacific Review, 1995, vol. 8, no. 3, 538-539.

 

Liệu Trung Quốc sẽ có thể chia rẽ ASEAN hay khối nà ysẽ đoàn kết vững chắc lại. Cho đến nay có vẻ như ý thứ hai là đúng hơn.

; Kỳ 2

Sự kiện Đảo Vành Khăn (Mischief Reef) và hậu kỳ: những tương tác chiến lược giữa Trung Quốc với ASEAN và trong nội bộ ASEAN.

Sự kiện được mệnh danh là Mischief Reef đã bắt đầu khi các lực lượng vũ trang của Philippines khám phá ra các kết cấu bằng bê tông do Trung Quốc xây trên bãi đá ngầm nhỏ bé đó vào tháng 02/1995, phía bên trong khu vực đặc quyền kinh tế 200 hải lí mà  Philippines tuyên bố chủ quyền.

Ba ngày đàm phán ở Bắc Kinh kết thúc trong bế tắc – Trung Quốc vẫn phản kháng rằng Mischief Reef là một phần của Trường Sa thuộc Trung Quốc và các kết cấu bê tông đó chỉ là nơi trú ngụ cho ngư dân Trung Quốc chứ không phải là boong ke quân sự.[1]

Sau đó chính phủ Philippines đã cho hải quân và không quân ra đánh sập các kết cấu này. Bắc Kinh ngạc nhiên về hành động của Philippines, nhưng họ lại càng ngạc nhiên hơn khi ASEAN đồng lòng ra một tuyên bố chung lên án hành động của Trung Quốc là phá vỡ  “Tuyên bố ASEAN về Biển Đông”.

Trước đó ASEAN vẫn tin rằng Trung Quốc sẽ nhã nhặn hơn và hòa giải trong khuôn khổ ngoại giao kín đáo để giữ thể diện chứ không làm ầm ĩ. Ngay cả như vậy, Trung Quốc cũng không tỏ vẻ xuống thang vì khi chính phủ Philippines tổ chức cho các nhà báo trong và ngoài nước ra thăm các đảo mà Philippines tuyên bố chủ quyền, các con tàu của họ đã bị các tàu Trung Quốc phong tỏa.[2] Philippines đã trả đũa bằng cách bắt 62 ngư dân Trung Quốc tại những vùng nước gần đó do đã vi phạm hải phận.[3]

Sau sự kiện đó, Pan Shiying, người phát ngôn không chính thức của Trung Quốc về Biển Đông đã tuyên bố với giới chức Mỹ rằng nếu lời đề nghị của Trung Quốc cùng khai thác các vùng đảo bị khước từ thì hải quân không còn cách nào khác là phải dùng vũ lực chiếm lấy các đảo này.[4] Có nghĩa là nếu các nước bằng lòng thương thảo với Trung Quốc, họ sẽ thừa nhận sự tuyên bố của các nước về một phần hoặc toàn bộ Trường Sa.

Nếu họ không thương thảo với Trung Quốc thì Trung Quốc sẽ dùng chiến thuật ” xắt salami” bằng cách xâm chiếm từng đảo, từng đảo, từng bãi đá, từng bãi ngầm một và từ đó tạo ra một sự đã rồi cho tất cả các nước Đông Nam Á phải tự giải quyết.

Tổng Thống Ramos đã quyết định cho phép một công ty con phụ thuộc tập đoàn dầu khí Mỹ Vaalco tìm kiếm dầu khí tại Reed Bank thuộc Trường Sa.[5] Nhằm ngăn chặn các bước lấn tới của Trung Quốc, tổng thống Ramos đã đe dọa sẽ nhờ cậy đến Hiệp ước Phòng Thủ chung Phi-Mỹ và Quốc hội Philippines đã thông qua một chương trình 50 tỷ Peso (2 tỷ usd) để nâng cấp quân đội nước này.[6]

Trong một nỗ lực nhằm kéo nhiều nước vào bàn thương lượng, các nước ASEAN đã nhấn mạnh vấn đề Trường Sa tại diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) về an ninh, một sáng kiến của hội nghị hậu-bộ trưởng thường niên tại Brunei vào tháng 07/1995.

Để làm giảm nhiệt tại khu vực, Bắc Kinh đã nói nhỏ với Manila rằng Trung Quốc sẽ không xây dựng các kết cấu mới tại khu vực tranh chấp với Philippines.[7] Và theo đó họ sẽ thảo luận các tranh cãi chủ quyền với ASEAN với tư cách một nhóm vào Hội nghị Thượng đỉnh tại Bangkok.[8]

Đề nghị này cho thấy một nhượng bộ lớn từ phía Trung Quốc trong bối cảnh trước đó họ đã khăng khăng sẽ chỉ thảo luận song phương. Tuy vậy có vẻ đằng sau đó đây chỉ là một mưu kế chiến thuật để xoa dịu các quan ngại của các nước ASEAN bởi vì đến tháng 3/1996, Trung Quốc lại tái xây dựng các kết cấu trên đảo Mischief mà người Phi đã phá bỏ trước đó.[9]

Trùng hợp với một loạt các trận pháo kích qua eo biển Đài Loan, thái độ hung hãn của Bắc Kinh tại Trường Sa được các giới chức và học giả ASEAN hiểu rằng đây là một nỗ lực của PLAN nhằm tận dụng điểm yếu chính trị của Tổng Bí Thư Quang Trạch Dân để nâng cao vị thế và mưu cầu lợi ích của họ.

Dù gì đi nữa vẫn có một cảm giác chung trong nội bộ ASEAN là Trung Quốc đang lần lữa chờ thời để đủ mạnh sẽ thôn tính tất cả các đảo đang tranh cãi tại Biển Đông. Còn có cách giải thích nào khác chăng, khi vừa chấp nhận các nguyên tắc giải quyết bằng thuơng lượng và cùng khai thác tài nguyên, Trung Quốc vừa tiến hành chiếm thêm đảo và dành cho các bên khác những hợp đồng dầu khí?

Việc chiếm đóng Trường Sa sẽ không chỉ là một biểu hiện cho sự tự đại rằng Trung Quốc đang hồi phục thành một cường quốc mà nó còn đưa Trung Quốc đến một vị trí của một tay chơi đáng gờm trên bàn cờ chính trị Đông Nam Á.

Ẩn sâu dưới hai lần can thiệp quân sự của Trung Quốc tại Johnson và Mischief vào năm 1988 và 1995 có lẽ là sự lo lắng của Trung Quốc rằng các tuyên bố chủ quyền của họ sẽ bị mài mòn nếu họ không nhanh chóng xác nhận sự hiện diện của họ tại Trường Sa. Trung Quốc trở nên nghi ngại các nỗ lực của các bên ASEAN tranh thủ sự ủng hộ lẫn nhau và chia Trường Sa cho nhau, đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN năm 1995.

Vào tháng 1/1992, Việt Nam và Malaysia đã có một thỏa thuận cùng khai thác tài nguyên tại các khu vực tranh chấp.[10] Vào tháng 4/1996, Việt Nam và Philippines đã gửi một nhóm các khoa học gia của hai nước trên một con tàu của chính phủ Philippines trong một chuyến đi kéo dài 15 ngày để bảo tồn các sinh vật biển tại Trường Sa.[11] Còn đối với các tranh cãi giữa Trung Quốc và Việt Nam về các nhượng quyền dầu lửa ngoài khơi, ASEAN cẩn thận không đổ dầu vào lửa, vẫn giữ thái độ im lặng.

Thật ra Trung Quốc sẽ cố đặt mình vào vị thế thuận lợi nhất trong bất kỳ cuộc thảo luận nào về chủ quyền Trường Sa khi nào họ thấy cần tỏ ra mềm dẻo về vấn đề thềm lục địa hay việc đòi hỏi quyền tại vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Malaysia và Brunei. Những nước này là những nước tuyên bố chủ quyền với số đảo và đá ít hơn cả so với các bên tranh chấp khác, và do vậy việc này sẽ không chỉ cho phép Trung Quốc xác định đường cơ sở cực nam và hợp pháp hóa sự có mặt của họ tại đó, mà còn có thể khiến các nước ASEAN khác phải quay lại chống nhau.

Khi ấy, cần quan sát các tương tác giữa Trung Quốc với hai nhóm quốc gia trong cùng cách thức của quan hệ cấp 3. Liệu Trung Quốc sẽ có thể chia rẽ họ hay ASEAN sẽ đoàn kết vững chắc lại. Cho đến nay có vẻ như ý thứ hai là đúng hơn. Tuy vậy, bất kỳ một nhượng bộ nào của Trung Quốc về tuyên bố chủ quyền tại Trường Sa sẽ làm Trung Quốc dễ phải nhượng bộ hơn tại các cuộc tranh giành ở nơi khác, do vậy kịch bản này cũng khó mà thành sự thật.

Mặc dù Đài Loan duy trì tuyên bố chủ quyền cho riêng mình tại các đảo Biển Đông, vai trò của đảo quốc này trong mớ bòng bong đang diễn ra ở Biển Đông trở nên khá mâu thuẫn với họ, và đây có lẽ cũng đã phản ánh chính xác hình ảnh họ trong cuộc khủng hoảng vị thế của mình.

Sau cuộc chạm trán giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày 14/03/1988, Bộ Trưởng Quốc Phòng Đài Loan đã tuyên bố nếu Trung Quốc khi đó yêu cầu quân Đài Loan ở đảo Thái Bình (đồn trú từ 1956) trợ giúp, thì Đài Loan sẽ xuất quân.[12] Vì những lý do dân tộc tính, những nhân vật trong Tân Đảng vốn ủng hộ thống nhất sẽ muốn toàn bộ Trường Sa về tay Trung Quốc hơn là về bất kì quốc gia ASEAN nào khác.[13] Do Đài Loan đã được nhận vào các hội thảo ở Inđonesia năm 1992, các giới chức và học giả tham dự của họ luôn lên tiếng mạnh khi lập lại lý lẽ Trung Quốc là các đảo tranh chấp đã từ lâu trong lịch sử thuộc về người Trung Quốc và các vấn đề phát sinh sẽ phải giải quyết chỉ khi chủ quyền “Trung Quốc” không bị ảnh hưởng.[14]

Trong tinh thần đó, Phó Tổng Giám Đốc của CNOOC đã có thể tuyên bố rằng kể từ tháng 8/1995, Trung Quốc và Đài Loan sẽ hợp tác để khảo sát và khai thác dầu khí trên Biển Đông vì cả hai bên như “trong một nhà và không có vấn đề tranh chấp chủ quyền lẫn nhau”.[15] Mặc dù Viện Hành pháp của Đài Loan vào tháng 4/1993 đã ra một hướng dẫn chính sách tuyên bố rằng ” Biển Nam Trung Hoa  (Biển Đông) nằm trong giới hạn vùng nước lịch sử là khu vực hàng hải trong vòng kiểm soát của Trung Hoa Dân Quốc”,[16] vấn đề làm cho mình gần giống với vị thế của Trung Quốc về chủ quyền “Trung Quốc” từ phía Đài Loan cho thấy tuyên bố của mình bị không mấy coi trọng bởi cả Trung Quốc và các quốc gia khác.

Bãi Scarborough: các nhân tố dưới tầm quốc gia tương tác lẫn nhau

Nằm trong vùng lân cận với Macclesfield Bank, cách đảo chính của Philippines là Luzon 200km về phía Tây, tọa lạc một bãi đá gọi là Scarborough hay Huangyan theo tiếng Trung Quốc.

Vào ngày 01/05/1997 hai tàu của Cục Hàng Hải Trung Quốc chở một nhóm các thành viên một câu lạc bộ dân sự từ Nhật, Mỹ, và Trung Quốc đã tiến đến gần bãi Scarborough. Ngay lúc ấy tàu chiến và phi cơ quân sự Philippines xuất hiện và cảnh báo các thuyền trưởng rằng họ đã vào bên trong đảo vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Philippines.[17] Công luận Philippines nhận thấy các câu lạc bộ kiểu này là những con cờ trong trò chơi tranh chấp chủ quyền của Trung Quốc trong nỗ lực sử dụng các phương tiện phi quân sự như tàu khảo sát, công ty dầu khí và kể cả các tàu bè dân sự của Trung Quốc và ngoại quốc để tiến công trong các trận chủ quyền lãnh thổ.

Nhà đương cục Trung Quốc đã ứng xử trên Biển Đông đúng y như họ đã tố cáo chính phủ Nhật Bản hành xử trong trường hợp Điếu Ngư /Senkaku. Những nghi vấn này đã có cơ sở vì theo lời của một nhà tổ chức chuyến đi người Hoa, ông này nói rằng chính phủ Trung Quốc đã chi hàng ngàn đô la để thuê  tàu và chuyến hành trình này đã được một cựu binh Trung Quốc dẫn đầu.[18]

Rốt cuộc câu chuyện dài này đến đâu? Thượng Nghị Sĩ Philippines Gregoy Honasan đã đề nghị chính phủ Phi huấn luyện và trang bị vũ khí cho các cư dân các đảo Trường Sa để tự vệ  chống những xâm phạm của nước ngoài trong tương lai.[19] Sau đó vị nghị sĩ ra Scarborough cắm cờ Phi trên đảo.

Măc dù chính quyền Phi ngay lập tức ra thông báo không liên quan đến hành động của các nhà hoạt động này bằng cách gọi đó là những hoạt động cá nhân, song cùng lúc ấy chính phủ Phi cũng tuyên bố họ vẫn sẽ tiếp tục xây dựng các hải đăng trên các đảo đang tranh chấp mà họ đang chiếm giữ.[20] Sự việc có vẻ như đã được giải quyết sau ba ngày thương lượng tại Bắc Kinh giữa Thứ trưởng Ngoại giao Phi và Trung Quốc, theo đó hai bên đồng ý lập một ủy ban khảo sát lại tuyên bố các chủ quyền của mình.[21] Tuy nhiên vào tháng 03/1998, Ngoại trưởng Philippines đã phải cảnh cáo Trung Quốc vì đã xây dựng một trạm vệ tinh trên một đảo Trường Sa và các buồng điện thoại trên các đảo do Trung Quốc chiếm giữ tại quần đảo Trường Sa.[22]

Còn tiếp


[1] Rodney Tasker, “A Line in the Sand,” Far Eastern Economics Review, 6 April 1995, 14.

[2] Ross Marlay, “China, the Philippines, and the Spratly Islands,” Asian Affairs – An American Review, winter 1997, vol. 23, no. 4, 207.

[3] Asiaweek, “A Breakthrough on the Spratlys,” 25 August 1995, 24.

[4] Nayan Chanda, Rigoberto Tiglao and John McBeth, “Territorial Imperative,” FarEastern Economics Review, 23 February 1995, 14.

[5] “Ramos Defends Oil Search in Disputed Waters,” FBIS East Asia, 6 July 1994, Tokyo KYODO.

[6] Rodney Tasker, “Ways and Means,” Far Eastern Economic Review, 11 May 1995, 14.

[7] “The Claim on the Kalayaan Islands in Spratlys Group,” BusinessWorld Weekender (Philippines),   14   February   1997.   http://bworld.net/oe021497/Weekend/Focus/story3.html (accessed 20 January 2003).

[8] Marlay, “China, the Philippines, and the Spratly Islands,” 207.

[9] Ibid.

[10] Cheng-yi Lin, “Taiwan’s South China Sea Policy,” Asian Survey, April 1997, vol. XXXVLL, no. 4, 328.

[11] Marlay, “China, the Philippines, and the Spratly Islands,” 207.

[12] Shim Jae Hoon, “Một giọt máu đào hơn ao nước lã chính trị” (Blood Thicker than Politics,) Far Eastern Economic Review, 5 May 1988, 26.

[13] Lin, “Taiwan’s South China Sea Policy,” 332.

[14] Chen Jie, “China’s Spratly Policy,” Asian Survey, October 1984, vol. XXXIV, no. 10,900.

[15] “Beijing Official on Cooperation to Tap Spratlys,” FBIS China, 30 August 1995, Taipei CNA.

[16] “The South China Sea Policy Guidelines,” reprinted in Kuan-ming Sun, “Policy of the Republic of China towards the South China Sea,” Marine Policy, 1995, vol. 19, no.5, 408.

[17] Long-Distance Radio Century Club (DXCC), “BS7H 1997 Bulletin 13 – 0530Z, 07

May 1997.” http://www.iglou.com/n4gn/sr/bltns/bltn13.html (accessed 20 January

1999).

[18] Andrew Sherry and Rigoberto Tiglao,”Luật Rừng” (Law of the Seize, tác giả chơi chữ Law of the Sea) Far Eastern Economic Review, 12 June 1997, vol. 17, 20-21.

[19] “Philippines: Government Urged to Arm Residents in Spratly Islands,” FBIS East Asia, 9 May 1997.

[20] “Manila To Build Lighthouses in Spratlys,” FBIS East Asia, 19 May 1997.

[21] “Philippines: Manila, PRC Agree on Working Group to Avert War in Spratlys,” FBIS East Asia, 30 May 1997.

[22] “Philippines: China Warned on Spratlys Satellite Plans,” FBIS East Asia, 3 March 1998, Quezon City GMA-7 Radio-Television Arts Network.

 

December 18, 2010 Posted by | Trung Cộng và Biển Đông, Trung Cộng và các nước Đông Nam Á | Leave a comment

TQ làm sao để bịt được miệng Mỹ

Theo DCV Online

Minxin PeiTrà Mi lược dịch

Trung Quốc không nên giựt mình vì tuyên bố của Mỹ. Và cẩn thận để khỏi phản ứng thái quá, Min xin Pei

Minxin Pei
Nguồn: futurechina.sg


Quan hệ Mỹ-Trung Quốc dường như đang đi vào vùng sỏi đá. Đầu tiên là sự tiết lộ về việc Trung Quốc và Pakistan đã ký một thỏa thuận có thể đưa tới việc xây dựng hai lò phản ứng hạt nhân ở Pakistan do Trung Quốc đảm nhận, tình hình đó đã khiến Washington phải quan tâm nhiều hơn.

Sau đó, Bắc Kinh công khai hoá sự bất mãn với việc Hạm đội 7 và Hải quân Hàn Quốc thao diễn quy mô trong biển Nhật Bản, và nói rằng họ xem sự phô trương sức mạnh quân sự đó làm ‘mất ổn định.’

Nhưng tuyên bố của Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton vào ngày 23 tháng 7 tại Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) ở Hà Nội, “Hoa Kỳ hỗ trợ quá trình cộng tác ngoại giao của tất cả mọi bên để giải quyết những tranh chấp lãnh thổ không bị ép buộc,” và còn thông báo rằng Hoa Kỳ “phản đối sử dụng vũ lực hoặc đe dọa từ bất kỳ quốc gia (tranh chấp) nào.” Tuyên bố này đã làm Trung Quốc nổi giận, quan chức TQ đã lên án Mỹ đang muốn “quốc tế hóa” những tranh chấp ở vùng biển Đông.

Ở mặt ngoài, người ta thấy Bắc Kinh có vẻ hoàn toàn hợp lý khi khó chịu về những nhận xét của Clinton. Đầu tiên, bà Clinton rõ ràng đã làm Trung Quốc chưng hửng. Dường như Hoa Kỳ không gởi một tín hiệu nào báo cho TQ biêt trước rằng Clinton sẽ có một thông báo quan trọng tại ARF năm nay, được xem như một cuộc họp mặt bình thường.

Thứ hai, địa điểm bà Clinton chọn để phát biểu, ngay tại Hà Nội, đã làm Trung Quốc khó chịu vô cùng. Việt Nam là một trong những quốc gia chính đang trong vòng tranh chấp (lãnh thổ với TQ) và tuyên bố của Clinton, dù có vẻ mang tính trung lập, thực sự gần gũi và có lợi hơn cho Hiệp hội các nước Đông Nam Á.

Vì vậy, trong mắt của Bắc Kinh, Washington đã chọn đồng minh. Trung Quốc tin rằng, mặc dù cuộc tranh chấp lãnh thổ đã âm ỉ từ lâu ở biển Đông, họ đã có những bước nghiêm túc để giải quyết mối quan tâm của những nước láng giềng. Thí dụ, năm 2002, Trung Quốc và ASEAN đã ký một Tuyên bố lịch sử về Quy tắc Ứng xử của Các nước trong vùng Biển Nam Trung Hoa (1) cam kết tìm kiếm một giải pháp hòa bình cho các tranh chấp lãnh thổ. Trong khi đó, một số quan chức của ASEAN hy vọng rằng Trung Quốc sẽ ký một thoả hiệp chính thức về Quy tắc Ứng xử vào cuối năm nay.

Tuy nhiên, Bắc Kinh không nên cho phép để con giận làm mất cái khôn. Chắc chắn, chưa có Ngoại trưởng Mỹ nào đã công khai tuyên bố về tư thế của Mỹ trong những tranh chấp ở biển Nam Trung Hoa (điều này trở nên khía cạnh quan trọng nhất trong lời tuyên bố của Clinton). Nhưng mặt khác, bản chất của lời tuyên bố của bà Hilary không tách rời quan điểm cố hữu của Mỹ về những tranh chấp ở Biển Đông. Như thế, trên thực tế, Mỹ không thay đổi chính sách.

Thật vậy, mặc dù tuyên bố của bà Clinton dường như là một cú sốc khó chịu, quan chức Trung Quốc thực sự cần phải chú ý nhiều hơn đển những tuyên bố gần đây của Washington về tranh chấp ở biển Nam Trung Hoa — tháng Hai năm nay, Phó Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Robert Scher đã tuyên bố tương tự như Ngoại trưởng Clinton tại cuộc họp về Hội đồng Xét lại về Kinh tế và An ninh giữa Mỹ-Trung Quốc, một cơ quan của Quốc hội.

Và nếu Bắc Kinh đã không quan tâm đến tuyên bố của ông Scher thì cũng nên để ý đến lời bình luận của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates vào ngày 5 tháng 6. Phát biểu tại cuộc Đối thoại Shangri-la ở Singapore, ông Gates tuyên bố rằng

‘biển Nam Trung Quốc là một khu vực có mối quan tâm ngày càng tăng … Chính sách của chúng tôi rất rõ ràng: điều quan trọng là sự ổn định, tự do vận chuyển và sự phát triển kinh tế không bị cản trở phải được được duy trì. Chúng tôi không đứng về bên nào trong những tranh chấp chủ quyền, nhưng chúng tôi phản đối việc sử dụng vũ lực và hành động cản trở tự do di chuyển trên biển. Chúng tôi phản đối bất kỳ nỗ lực nào nhằm đe doạ các công ty Mỹ hoặc công ty của bất cứ quốc gia nào khác đang tranh chấp vào các hoạt động kinh tế hợp pháp. Tất cả mọi bên phải cùng nhau làm việc để giải quyết sự khác biệt bằng những nỗ lực hòa bình, đa phương phù hợp với tập quán pháp luật quốc tế.”

Lạ thay, tuyên bố của Bộ trưởng Gates chua cay hơn so với tuyên bố của Ngoại trưởng Clinton, nhưng đã không thấy phản đối ồn ào từ phía Trung Quốc.

Vì vậy, các quan chức Trung Quốc không cần phải quá chú trọng vào từng con chữ trong tuyên bố mới đây của bà Clinton về (tranh chấp ở) biển Nam Trung Hoa, và TQ chắc chắn không nên phản ứng thái quá và gây hấn với Washington về một việc-không-phải-là-vấn-đề như thế này.

Cách trả lời hay nhất của Trung Quốc với Mỹ là nên dùng cái duyên của mình làm đòn phản công lại những nỗ lực ngoại giao muộn màng của Washington để khôi phục lại ảnh hưởng và uy tín ở Đông Nam Á. Suốt mười năm qua, Trung Quốc đã đạt được những thành công lớn trong việc dùng ảnh hưởng kinh tế và khả năng ngoại giao của mình để trấn an các nước trong vùng Đông Nam Á và cải thiện hình ảnh của TQ trong khu vực.

Trên thực tế, để dập tắt cơn bão ngoại giao nho nhỏ này ‒ và bịt miệng Hoa Kỳ ‒ Bắc Kinh chỉ cần ký vào Thoả ước về Quy tắc Ứng xử ở Biển Nam Trung Hoa với các nước trong khối ASEAN.

August 21, 2010 Posted by | Trung Cộng và các nước Đông Nam Á | Leave a comment