Phi Vũ 3

Thương nhớ lắm quê hương vời vợi

Giới thiệu cuốn “Chết vì tay Trung Quốc – Đối đầu với con rồng – Lời kêu gọi hành động toàn cầu”

Đoan Trang tổng lược

Theo Pháp Luật TP Hồ Chí Minh

Độc giả Dân Luận có thể tải cuốn sách đã được chuyển ngữ sang tiếng Việt theo một trong hai địa chỉ:

http://www.mediafire.com/?8hiroz7ust1eftk

https://danluan.org/files/navarro_p._autry_g_2011._death_by_china-vie_translated_by_a_group_of_ait_alumni_in_vietnam.pdf

Chết vì tay Trung Quốc – Bài 1: Liều thuốc giải stress cho “những kẻ bị bắt nạt”

Ngày 15-5 vừa qua là tròn một năm ngày xuất bản cuốn sách Death by China (Chết vì tay Trung Quốc) của hai học giả Mỹ Peter Navarro và Greg Autry. Continue reading

November 26, 2012 Posted by | Biên khảo | Leave a comment

Hai Bà Trưng và bài học “ việc nước trước việc nhà ”

Theo RFI

 
Hai Bà Trưng khởi nghĩa (Tranh dân gian Đông Hồ - DR)

Hai Bà Trưng khởi nghĩa (Tranh dân gian Đông Hồ – DR)

Sử sách Việt Nam, dù mới dù cũ, đều dành phần trang trọng nói về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư nhà Hậu Lê, Việt Nam Sử Lược -Trần Trọng Kim hay Việt Sử Toàn Thư- Phạm Văn Sơn còn dành một chương riêng cho hai bà. Đó không phải ngẫu nhiên, mà bởi vì đây là cuộc khởi nghĩa đầu tiên của dân tộc Việt Nam thời Bắc Thuộc, bởi vì cuộc khởi nghĩa Trưng Trắc-Trưng Nhị có vai trò to lớn trong lịch sử Bắc Thuộc nói riêng và lịch sử Việt Nam nói chung. Và bởi vì cuộc khởi nghĩa này đã để lại những bài học quí giá mà đến hiện tại vẫn còn nguyên giá trị.

Phất cờ nương tử

Triệu Đà là tướng nhà Tần, nhân bên Trung Quốc loạn lạc mà nổi lên lập nghiệp ở vùng Quảng Đông-Quảng Tây. Năm 207 trước Công Nguyên (TCN), Triệu Đà đem binh thôn tính Âu Lạc của Thục Phán An Dương Vương. Nếu dựa theo Sử Ký của Tư Mã Thiên, thì Triệu Đà chiếm Âu Lạc vào năm 179 TCN. Thế nhưng, dù năm 207 hay 179 thì việc Triệu Đà đánh chiếm Âu Lạc cũng đã bắt đầu thời kỳ con cháu Hùng Vương bị ngoại bang đô hộ: Thời Bắc Thuộc.

Nước Nam Việt của Triệu Đà tồn tại đến năm 111 TCN thì mất vào tay nhà Tây Hán. Sau đó, nhà Hán đổi Nam Việt thành Giao Chỉ Bộ gồm 9 quận : Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Châu Nhai, Đam Nhĩ. Trị sở quận Giao Chỉ thời Đông Hán (23-220 Công Nguyên-CN) đặt ở huyện Mê Linh thuộc quận Giao Chỉ (Mê Linh sau này còn gọi là Phong Châu mà theo cách đọc của người Việt là Châu Phong). Theo Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, quận Giao Chỉ tương đương với vùng Bắc Bộ hiện tại.

Nhà Hán đặt chức Thái Thú để cai trị mỗi quận, trên Thái Thú có quan Thứ Sử là người Trung Quốc có trách nhiệm giám sát các quận. Các Lạc hầu (văn quan), Lạc tướng (võ quan) dưới quyền Thái Thú coi việc trị dân như cũ. Họ vẫn giữ quyền thế tập và chỉ phải mỗi năm nộp thuế cống cho Thái Thú.

Hai bà Trưng là con của lạc tướng huyện Mê Linh (tức Châu Phong) thuộc quận Giao Chỉ. Trưng Trắc là chị, kết hôn với Thi Sách-con trai của lạc tướng huyện Châu Diên cũng thuộc quận Giao Chỉ. Năm 34 CN, nhà Đông Hán cử Tô Định sang làm Thái Thú quận Giao Chỉ. Tô Định là người bạo ngược, cai trị hà khắc, khiến dân tình ta thán. Vợ chồng Thi Sách muốn dấy binh khởi nghĩa để đánh đuổi ngoại xâm, nhưng chưa kịp khởi binh thì Tô Định đã đánh chiếm Châu Diên và giết chết Thi Sách vào năm 40 CN. Trưng Trắc thay chồng ” phất cờ nương tử “, lãnh đạo nghĩa quân tiếp tục cuộc kháng chiến. Nhiều quận khác như Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố cũng theo về dưới lá cờ Hai Bà Trưng. Quân Hai Bà Trưng nhanh chóng chiếm được nhiều thành trì. Tô Định bỏ chạy về nước và bị triều đình Đông Hán giáng chức. Còn Trưng Trắc thì lập tức xưng vương dựng triều Lĩnh Nam đóng đô ở Mê Linh.

Năm 41 CN, nhà Hán phong Mã Viện làm Phục Ba tướng quân mang quân tiến đánh Hai Bà Trưng. Quân hai bà bị thua phải rút về giữ đất Cấm Khê (phía tây nam huyện Mê Linh). Cầm cự được 2 năm, đến năm 43 CN, quân Hai Bà Trưng bị Mã Viện tấn công phải chạy đến xã Hát Môn huyên Phúc Lộc (Phúc Thọ, Sơn Tây). Đường cùng, hai bà gieo mình xuống sông Hát Giang tự tận vào ngày 6 tháng 2 năm Quý Mão (43 CN).

Một số điểm cần khảo cứu thêm

Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng tuy rằng sách sử nào cũng đề cập, nhưng hầu hết đều rất đại khái, thiếu chi tiết và còn nhiều điểm chưa rõ. Chẳng hạn như số lượng thành trì mà hai bà chiếm được khi khởi nghĩa, sách Đại Việt Sử Lược khuyết danh và An Nam Chí Lược của Lê Tắc hồi đầu thế kỷ 14, Đại Việt Sử ký Toàn Thư nhà Hậu Lê được biên soạn hồi thế kỷ 17, Khâm Đinh Việt Sử Thông Giám Cương Mục nhà Nguyễn thế kỷ 19, đều ghi là quân Hai Bà Trưng chiếm được 65 thành. Thế nhưng sách Việt Sử U Linh (Tập truyện về cõi u linh của nước Việt) của Lý Tế Xuyên thế kỷ 14 thì lại chép là 60 thành, Việt Sử Tiêu Án của Ngô Thời Sĩ hồi thế kỷ 18 ghi là 50 thành.

Tên họ của Trưng Trắc cũng có điểm cần khảo cứu thêm. Đại Việt Sử Lược chép: “Có Trưng Trắc người huyện Mê Linh (làng Hạ Lôi, huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên) là con gái của quan Lạc tướng”. Đại Việt Sử ký Toàn Thư thì ghi : “Tên húy là Trắc, họ Trưng. Nguyên là họ Lạc, con gái của Lạc tướng huyện Mê Linh, Phong Châu, vợ của Thi Sách ở huyện Chu Diên”. Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục thì chép: “Vương vốn họ Lạc, lại có một tên họ nữa là Trưng. Là con gái quan lạc tướng huyện Mê Linh”. Hay như Thi Sách, thì đa số sách chép họThi tên Sách, nhưng cũng có sách cho rằng tên ông là Thi. Sử gia Phạm Văn Sơn trong cuốn Việt Sử Toàn Thư còn cho rằng Thi Sách tên đầy đủ là Đặng Thi Sách, tức cho rằng ông mang họ Đặng.

Khởi nghĩa Hai Bà Trưng: Vì nhà hay vì nước?

Bàn về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, có một chi tiết tối trọng cần làm rõ, nếu không thì ất hẳn ý nghĩa của cuộc khởi nghĩa này ít nhiều sẽ bị giảm sút. Chi tiết đó là: Nguyên nhân khởi nghĩa là gì: Vì thù nhà hay nợ nước ?

Sách Đại Việt sử Ký Toàn Thư nhà Hậu Lê chép về nguyên nhân khởi nghĩa của Trưng Trắc như sau: “Xưa kia chồng bà Trắc bị Tô Định giết chết. Bà Trắc căm thù Tô Định, lại khổ vì nỗi Tô Định lấy pháp luật ràng buộc dân, bà bèn cùng em gái là bà Nhị khởi binh đánh”.

Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục nhà Nguyễn ghi: “Lúc bấy giờ Thái Thú Tô Định cai trị tham lam và tàn bạo, giết mất chồng bà. Bà bèn cùng với em gái là Trưng Nhị dấy quân”.

Đại Nam quốc sử diễn ca của Lê Ngô Cát hồi thế kỷ 19 cho biết :

“Bà Trưng quê ở châu Phong,
Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên.
Chị em nặng một lời nguyền,
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân ”.

Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim hồi đầu thế kỷ 20 cho biết: “Năm Canh Tý (40), người ấy (Tô Định) lại giết chết Thi Sách…Vợ Thi Sách là Trưng Trắc, con gái quan lạc tướng ở huyện Mê Linh cùng với em là Trưng Nhị nổi lên đem quân đánh Tô Định”.

Đọc qua các đoạn trên ta có cảm giác rằng, Bà Trưng khởi binh đánh Tô Định trước hết là để trả thù Tô Định đã giết chồng bà là Thi Sách, tức mục đích chính của cuộc khởi nghĩa là vì trả thù nhà. Nếu quả thật như vậy, thì cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng mất đi ý nghĩa thật sự của nó !

Việc nước trước việc nhà

Để hiểu chính xác nguyên nhân chính của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, thiết nghĩ cần đi vào bối cảnh ịch sử của cuộc khởi nghĩa. Hồi ấy, chính sách cai trị của nhà Hán đối với Giao Chỉ vốn nổi tiếng hà khắc, cái cảnh bị ngoại bang đô hộ thì ngàn đời nay vẫn lắm nhọc nhằn. Sử cũ còn chép, nhiều văn thần võ tướng của nhà Hán khi loạn lạc chạy sang tỵ nạn ở nước ra để được yên ổn, rồi bọn người di cư này được thay thế dần quan lại bản xứ. Họ lại chiếm cả một số ruộng đất ở đây, dựa vào thế họ là người của “Thiên triều“. Bị xâm lăng về quyền hành, lại bị đẽo gọt cả về kinh tế, quý tộc cũng như nhân dân Giao Chỉ rất lấy làm căm phẫn.

Trước khi Tô Định đến trấn nhậm Giao Chỉ, thái thú quận Giao Chỉ là Tích Quang. Người này có đường lối cai trị mềm dẻo, biết vỗ về dân, du nhập phong tục phương Bắc dạy cho dân bản địa. Thái Thú quận Cửu Chân là Nhâm Diên dạy dân trồng lúa bởi trước đó dân Việt chỉ biết chài lưới và săn bắt. Sử cũ cho biết, Nhâm Diên còn trợ cấp tiền cho trai gái đến tuổi cặp kê làm lễ cưới, nhờ đó mà lúc bấy giờ có tới hơn hai nghìn người được lấy nhau.

Chính sách của Tích Quang và Nhâm Diên xoa dịu phần nào nỗi đau khổ của dân chúng. Nhưng đây chỉ là những hạt mưa hiếm hoi trên một cánh đồng bị hạn hán lâu ngày. Sự kiện này chỉ trì hoãn được cuộc nổi loạn nhất thời mà thôi bởi Giao Chỉ bộ khi ấy như một thùng thuốc nổ chỉ đợi người ta ném xuống một chiếc que diêm là phát nổ ngay lập tức.

Huống chi câu chuyện về lòng tốt của hai vị Thái Thú nói trên chưa chắc có thật như lời nhận xét của vua Tự Đức trong Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục: “Triệu Đà vốn là người Trung Quốc, làm vua trên nước Nam Việt và truyền nối đã ngót trăm năm. Xem bức thư trả lời Văn Đế nhà Hán thì Triệu Đà vốn là người có học thức; có lẽ nào lại chưa biết dạy dân phép cấy cày và lễ giá thú mà phải đợi bắt đầu từ hai Thái Thú ấy? Huống chi, lại bảo đồng thời có tới hơn hai nghìn người lấy nhau. Xem thế đủ thấy rõ rằng ghi chép thất thực, không đủ tin”.

Năm 34 CN, Tô Định được nhà Đông Hán phái làm Thái Thú quận Giao Chỉ. Sách sử Việt Nam tất cả đều thừa nhận một điểm: Tô Định là người tàn bạo. Đại Việt Sử ký Toàn Thư đánh giá : “Thái Thú Giao Chỉ là Tô Định chính sự tham lam tàn bạo”, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục cũng cho rằng: “Thái Thú Tô Định cai trị tham lam và tàn bạo”, Lĩnh Nam Chích Quái chép: “Tô Định ở Giao Châu rất tham bạo”, Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca nhận định: “Đến như Tô Định là người chí hung”, Việt Nam Sử Lược bàn: “Tô Định là người bạo ngược, chính trị tàn ác, người Giao Chỉ đã có lòng oán hận lắm”.

Qua đó mới thấy, người Việt lúc bấy giờ oán hận Tô Định lắm, bởi thế họ mới đứng lên khởi nghĩa dưới ngọn cờ của vợ chồng Thi Sách để đánh đuổi ngoại bang. Chủ tướng của họ là Thi Sách lại bị Tô Định giết. Thù càng thêm sâu, hận càng thêm lớn, bởi vậy họ chiến đấu càng anh dũng và thiện chiến, và đã đạt được thắng lợi khi giành được độc lập cho dân tộc ngót 3 năm.

Như vậy ta hiểu rằng, nếu Thi Sách không bị giết thì cuộc khởi nghĩa sớm muộn gì cũng vẫn nổ ra, việc Tô Định giết Thi Sách đã thúc đẩy cuộc khởi nghĩa tiến gấp mà thôi và khiến cho lòng thù hận của người Việt càng lớn, đến mức mà dù thua thiệt mọi bề so với kẻ thù nhưng quân Hai Bà Trưng vẫn giành được chiến thắng.

Ngoài ra, nên nhớ rằng, nếu lòng người không thù ghét Tô Định và phản đối sự đô hộ của nhà Hán, và nếu sự thù ghét không lớn, thì ai lại có thể vì cuộc báo thù của một cá nhân mà nổi lên như giông bão như vậy? Dân Giao Chỉ, Cửu Chân nổi lên ủng hộ Hai Bà Trưng thì còn có thể cho rằng họ làm thế vì họ là những người chịu ảnh hưởng trực tiếp của quí tộc quận Giao Chỉ, chứ còn dân Nhật Nam, Hợp Phố là những dân ở xa ảnh hưởng của quý tộc Giao Chỉ mà còn nổi lên ủng hộ Hai Bà Trưng, đủ thấy mục tiêu của họ không phải để giúp một người trả thù cá nhân, mà là vì nghĩa lớn của dân tộc.

Tóm lại, khi mà toàn dân nổi lên chiến đấu thì cuộc chiến đấu phải là vì nghĩa lớn của cả dân tộc, chứ không bao giờ vì quyền lợi của một cá nhân, dù cá nhân đó có nhiều uy vọng đến đâu !

Hào khí nhất trời, danh truyền thanh sử !

Đọc kỹ Đại Nam quốc sử diễn ca ta thấy có đoạn:

 “ Đến như Tô Định là người chí hung.
Bà Trưng quê ở châu Phong,
Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên.
Chị em nặng một lời nguyền,
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân.”

Theo đó ta thấy rằng, nguyên nhân khởi nghĩa của Hai Bà Trưng là “Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên”, tức có hai nguyên nhân: “Giận người tham bạo” và “Thù chồng ”. Trong hai nguyên nhân đó, ta lại thấy việc “Giận người tham bạo” được đặt trước “Thù chồng”, tức “việc nước trước việc nhà”. Tức đánh đuổi kẻ cai trị bạo ngược đúng như mục đích mà vợ chồng Trưng Trắc đồng lòng đặt ra cho cuộc khởi nghĩa, nhưng khi chồng bà bị giết, thì ngọn lửa thù hận càng trở nên mãnh liệt hơn.

Thiên Nam Ngữ Lục ghi rằng, trước khi xuất binh đánh Tô Định Trưng Trắc đã đăng đàn khấn thiên địa như sau :

“ Tôi là con gái phụ nhân,
Thời loạn ơn chúng lập thân trợ đời “

Qua lời tế cáo trời đất trên ta thấy rõ ràng cái chí của bà Trưng là « Trợ đời », giúp nước trong thời loạn. Ta thấy toát lên một hào khí anh hùng nào thua kém đấng mày râu : ” Đã mang tiếng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông “.

Việt Sử Tiêu Án và một số sách sử khác còn ghi nhận một chi tiết : Khi Trưng Trắc ra quân, chưa hết tang chồng, bà ăn mặc quần áo đẹp, các tướng hỏi, bà trả lời rằng: ” Việc binh phải tòng quyền, nếu giữ lễ làm dung nhan xấu xí, thì tự làm giảm nhuệ khí, nên ta mặc đẹp để làm cho thế quân hùng tráng; vả lại lũ kia thấy thế, tâm động, nhụt bớt chí khí tranh đấu, thì ta có dễ phần thắng ” . Qua đó ta càng thấy rõ chí khí đặt việc quốc gia lên trên hết của Bà Trưng. Nếu là một nhi nữ thường tình, bị chuyện chồng con kìm hãm thì làm sao có được dũng mưu và cách ứng xử như vậy.

Chí khí anh hùng của hai bà Trưng được các sử gia không tiếc lời ca tụng. Trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Lê Văn Hưu nói: “ Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà, hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố, cùng 65 thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay, có thể thấy hình thế đất Việt ta đủ dựng được nghiệp bá vương. Tiếc rằng nối sau họ Triệu cho đến trước họ Ngô, trong khoảng hơn nghìn năm, bọn đàn ông chỉ cúi đầu bó tay, làm tôi tớ cho người phương Bắc, há chẳng xấu hổ với hai chị em họ Trưng là đàn bà hay sao ? ”.

Vua Tự Đức phê trong Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục như sau: “ Hai bà Trưng thuộc phái quần thoa, thế mà hăng hái quyết tâm khởi nghĩa, làm chấn động cả triều đình Hán. Dẫu rằng thế lực cô đơn, không gặp thời thế, nhưng cũng đủ làm phấn khởi lòng người, lưu danh sử sách. Kìa những bọn nam tử râu mày mà chịu khép nép làm tôi tớ người khác, chẳng cũng mặt dày thẹn chết lắm dư ! ”.

Sử gia Nguyễn Nghiễm đời Hậu Lê bàn rằng: “ Bà Trưng Vương nổi giận, khích lệ đồng bào, nghĩa binh đi đến đâu, gần xa đều hưởng ứng, 50 thành Ngũ Lĩnh đều khôi phục được hết, dân sự đang khổ sở đắng cay, lại được trông thấy mặt trời. Bà quả là bậc anh hùng hơn người nhiều lắm, tuy rằng một đám quân mới tập hợp, mới nhóm lên đã tan vỡ, nhưng cũng hả được lòng phẫn uất của thần, nhân ”.

Sử gia Trần Trọng Kim cũng không tiếc lời ca ngợi: “ Hai bà Trưng làm vua được ba năm, lấy cái tài trí người đàn bà mà dấy được nghĩa lớn như thế, khiến cho vua tôi nhà Hán phải lo sợ, ấy cũng là đủ để cái tiếng thơm về muôn đời ”.

Rõ ràng, nếu Trưng Trắc khởi binh chỉ vì trả thù chồng hoặc chủ yếu vì trả thù chồng, thì sử gia các thế hệ và ngay cả vị hoàng đế trí thức nhất triều Nguyễn là Tự Đức đã không phải tốn lời ca tụng đến thế !

Vai trò Hai Bà Trưng trong lịch sử

Bàn về vai trò của Hai Bà Trưng trong lịch sử Bắc Thuộc nói riêng và trong lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung, phó giáo sư-tiến sĩ sử học Hà Minh Hồng, trưởng Khoa Lịch sử Trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân văn Thành Phố Hồ Chí Minh cho rằng :

“ Đối với lịch sử thời Bắc Thuộc nói riêng, thì ta thấy khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm 40 nổ ra và thắng lợi mới chỉ kết thúc hơn một thế kỷ đầu của thời kỳ Bắc Thuộc, tức từ năm 179 TCN cho đến năm 40 mà thôi. Nhưng thắng lợi này có vai trò mở đường cho 10 thế kỷ sau đó, tức từ thế kỷ thứ Nhất đến thế kỷ thứ Mười. Dân tộc Việt Nam liên tục nổi dậy khởi nghĩa, cho đến khi giành được quyền làm chủ và thoát hẳn ra khỏi chế độ Bắc Thuộc ấy “.

Hơn 1 000 năm, từ năm 179 TCN cho đến năm 907, các đế chế phương Bắc muốn áp đặt một chế độ cai trị áp bức, và hơn thế nữa, họ thực hiện một sự thủ tiêu nền văn hóa Văn Lang-Âu Lạc, đồng hóa văn hóa dân tộc, xóa bỏ quốc gia dân tộc này như là họ từng xóa bỏ Bách Việt vậy. Nhưng người Việt từ Hai Bà Trưng và sau Hai Bà Trưng đã dùng biện pháp bạo lực để chống lại bạo lực, chống lại ách đô hộ ngoại bang, chống lại đồng hóa, kết hợp với nhiều biện pháp khác để mà chống lại sự đô hộ tàn bạo của phương Bắc. Có vậy thì mới kết thúc được chế độ Bắc Thuộc, chứng tỏ là đất Việt, người Việt đến đầu Công Nguyên đã hoàn toàn đủ sức để dựng nghiệp bá vương không thua gì phương Bắc.

Chống ngoại xâm là một trong những dòng chảy mạnh mẽ nhất của suối nguồn lịch sử dân tộc

Còn trong lịch sử dân tộc hàng ngàn năm, tính từ thời Hùng Vương, chúng ta thấy rằng, chống ngoại xâm là một trong những dòng chảy mạnh mẽ nhất của suối nguồn lịch sử dân tộc. Trong dòng chảy mạnh mẽ ấy có mặt mọi người Việt, và trong cái mọi người Việt ấy có cả những phụ nữ chân yếu tay mềm dám đứng lên làm nữ tướng. Trưng Trắc và Trưng Nhị là những nữ tướng mở đầu cho những nữ tướng Việt. Từ đầu Công Nguyên thì những nữ tướng này đã quyết tâm đền nợ nước trả thù nhà. Về sau thì còn có những nữ tướng khác như Bà Triệu thế kỷ 3, Bùi Thị Xuân thế kỷ 18… Tất cả đều vì lý lẽ đền nợ nước trả thù nhà cả.

Hai Bà Trưng là hình ảnh thật chứ không phải là hình tượng văn học. Bà Triệu, Bùi Thị Xuân… cũng là những hình ảnh thực như thế. Những hình ảnh thực ấy của các nữ tướng lại có tính tượng trưng cho các giới trong xã hội-quốc gia, biểu tượng cho tinh thần của cả dân tộc, buộc phải đứng lên chống ngoại xâm, chống ách đô hộ tàn bạo của ngoại bang. Họ không phải là không biết phận chân yếu tay mềm, nhưng họ đã tỏ rõ cho tất cả mọi người thấy được một lẽ tự nhiên là, dù chân yếu tay mềm cũng có thể làm được việc lớn là đền nợ nước trả thù nhà. Họ đã làm được, cùng với các tầng lớp khác, cùng với toàn dân Việt, không chịu sống quỳ, không chấp nhận sự bảo hộ.

Cho nên dù phương Bắc hay phương Tây, dù thời thượng cổ hay thời trung đại, thời cận đại hay hiện đại, dù xa xưa hay ngày nay cũng đều vậy thôi: những người chân yếu tay mềm, những dân tộc như thế, không chấp nhận việc áp đặt cho dân tộc Việt Nam một nền cai trị áp bức dân tộc được.

Hai bài học lịch sử

Sử gia Hà Minh Hồng rút ra hai bài học lịch sử từ cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng như sau :

“ Bài học đầu tiên của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng là bài học “đền nợ nước trả thù nhà”. Bài học này được toát lên trong lí do mà hai chị em Trưng Trắc-Trưng Nhị đã tuyên bố khi phất cờ nương tử :

 “ Một xin rửa sạch nước thù,
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ hùng.
Ba kẻo oan ức lòng chồng,
Bốn xin vẻn vẹn sử công lênh này  “.

Ở đây, một, hai, ba, bốn không phải chỉ là việc xếp đặt 1,2,3,4 để gieo vần, mà là muốn nói phải biết xếp nợ nước trên thù nhà, quốc gia trên dòng họ. Chỉ có như vậy mới thu được ba quân của 65 thành trì của Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố. Chỉ có như vậy thì mới nổi dậy lật đổ ách thống trị tàn bạo của giặc Hán được.

Bên cạnh đó, cũng nên thấy một bài học nữa dưới cờ nương tử của năm 40 ấy, đó là bài học về sự đoàn kết, cố kết vì “nghiệp xưa họ Hùng”. Chỉ có sức mạnh đoàn kết ấy để nhứt hộ vạn ứng thì mới có thể “Đuổi ngay Tô Định dẹp yên biên thùy”. Và sau đó là xưng vương, lập triều Lĩnh Nam đóng đô ở Mê Linh. Như vậy là sức mạnh đoàn kết từ trong nhà ra ngoài. Từ trong nhà tức là từ chị em Trưng Trắc-Trưng Nhị, và các chị em ở trong dòng họ, ở quê hương ấy, rồi ra đến bên ngoài, đến cả nước như thế, cả 65 thành trì như thế, cả Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố. Như vậy thì mới đủ sức để chống chọi với kẻ thống trị tàn bạo và dựng nghiệp bá vương sánh cùng phương Bắc.

Tôi cho rằng, những bài học từ mùa xuân năm 40 ấy đến nay vẫn còn nguyên giá trị ”.

Hai ngàn năm giở lại trang sử cũ, ta thấy rằng trong cái mà người ta thường nói “ Trăm năm đô hộ giặc Tây, ngàn năm đô hộ giặc Tàu ”, thì trong cái “ Ngàn năm đô hộ giặc Tàu ” đó, cuộc khởi nghĩa thắng lợi giành lại độc lập dân tộc đầu tiên lại do phụ nữ lãnh đạo. Thế mới biết cái tài của phụ nữ Việt Nam, thế mới hiểu được vai trò của phụ nữ Việt Nam trong lịch sử hào hùng của dân tộc.

Hai ngàn năm giở lại trang sử cũ, qua câu chuyện Hai Bà Trưng, ta lại được thêm một lần ôn về hai truyền thống quí báu của dân tộc Việt Nam là tinh thần đoàn kết chống giặc ngoại xâm và truyền thống “ việc nước trước việc nhà ”, đặt lợi ích cộng đồng dân tộc lên trên hết. Đó cũng chính là hai sức mạnh phi thường của dân tộc Việt Nam, đã giúp dân tộc Việt Nam vượt qua biết bao bão táp ngoại xâm để giữ vững nền tự do độc lập.

October 15, 2012 Posted by | Biên khảo, Lịch Sử | Leave a comment

Việt Nam dâng 3/4 vùng biển Hoàng Sa và 4/5 vùng biển Trường Sa?

Theo Bauxite VietNam

Phạm Quang Tuấn

Gần đây có thông tin loan tải cho rằng vào năm 2009, Hà Nội đã nộp cho Liên Hiệp Quốc một hải đồ xác nhận 3/4 “vùng biển Hoàng Sa” và 4/5 “vùng biển Trường Sa” là không thuộc về Việt Nam. Sự thật có như vậy không?

Để có thể giải đáp được điều đó, thiết nghĩ cũng nên biết qua những khái niệm căn bản về luật biển cũng như những đòi hỏi mà Việt Nam đã đệ trình lên LHQ. Continue reading

August 14, 2012 Posted by | Biên khảo | 1 Comment

GADDAFI VÀ HCM/CSVN, AI BỊ BỊNH TÂM THẦN?

Theo Web site “Một Góc Phố”
TSL

Trong những cuộc phỏng vấn mới đây, nhà lãnh đạo đượng thời của Libya, Colonel Muammar Gaddafi đã tuyên bố nhiều câu khiến người ta liên tưởng đến Hồ Chí Minh và đảng CSVN.

Câu đầu tiên là “tất cả người dân đều yêu tôi và sẵn sàng chết cho tôi”. Cái chữ “yêu” này được dùng để nói lên một tình cảm mà nhiều khi không có lý trí xen vào. Tại sao mọi người dân đều yêu ông lãnh tụ này thì không ai được biết. Continue reading

March 27, 2011 Posted by | Bình luận, Biên khảo | Leave a comment

Phong trào Dân chủ Việt Nam: Niềm tin và hy vọng

Theo danchimviet.info
Tác giả: Trần Bảo Việt

Trong thời gian qua, với cao trào tranh đấu cho nền dân chủ lật đổ chế độ độc tài đi đến thành công của nhân dân Tunisia, Ai cập, Sudan và đang loan tỏa đến Jordan, Yemen, Algeria cùng các nước Phi châu khác đã khiến cho cục diện chính trị toàn cầu bắt buộc phải thay đổi theo chiều hướng dân chủ đa nguyên, nhất là sau bài diễn văn của tổng thống Hoa kỳ Obama ủng hộ sự nổi dậy của nhân dân Ai cập và sự từ chức của nhà độc tài già nua Hosni Mubarak. Điều này chứng tỏ rằng, không có một thế lực đen tối nào cưỡng lại được ý chí và sức mạnh của toàn dân. Continue reading

February 23, 2011 Posted by | Biên khảo | Leave a comment

Trần Trung Đạo: Nếu biến cố Thiên An Môn xảy ra hôm nay

Theo NguoiViet Boston
By HoangHac • Feb 3rd, 2011 • Category: Tiểu Luận

thienanmon1Một sinh viên đứng trên bục cao trong tang lễ Hồ Diệu Bang ngày 24 tháng Tư 1989, phát biểu: Đồng chí Hồ Diệu Bang vừa qua đời. Ông là một lãnh đạo trong sạch. Ông không có một chương mục ngân hàng ở nước ngoài. Con cái ông không thăng quan tiến chức chỉ vì cha là lãnh đạo đảng Cộng Sản. Hôm qua chúng ta nói về minzhu, dân chủ. Vậy minzhu nghĩa là gì? Min là “nhân dân” và Zhu là “làm chủ”. Chúng tôi muốn nhận trách nhiệm làm chủ !

Lời phát biểu của anh được đáp lại bằng những tràng pháo tay nồng nhiệt của hàng trăm ngàn người như được ghi lại trong cuốn phim tài liệu nổi tiếng The Gate of Heavenly Peace của Long Bow Group.

Và đó cũng là một trong hàng loạt các hoạt động của phong trào dân chủ Trung Quốc đã kéo dài suốt bảy tuần lễ tại quảng trường Thiên An Môn. Kết quả, một thiên hùng ca được viết bằng máu của nhiều ngàn sinh viên Trung Quốc yêu dân chủ và được thế giới biết đến hôm nay và mãi mãi về sau như Tàn Sát Thiên An Môn. Một điều cần lưu ý, nguyện vọng của nhân dân bị đáp lại bằng máu chẳng phải chỉ phát xuất từ quan điểm Cộng Sản cứu cánh biện minh phương tiện thôi mà còn là đặc tính riêng của văn hóa Trung Quốc. Ngay từ 1926, Lỗ Tấn đã phát biểu “Thỉnh nguyện lên chính phủ xảy ra tại mọi nước. Điều đó không cần thiết phải kết quả bằng cái chết, ngoại trừ, dĩ nhiên tại Trung Quốc”.

Lý tưởng Cộng Sản được Marx, Engel và các môn đệ ở Trung Quốc điểm tô như một thiên đàng tuyệt hảo, có khả năng thỏa mãn mọi nhu cầu của loài người tự giác. Lý thuyết đó cuốn hút hàng triệu nông dân Trung Quốc nghèo khó bỏ gia đình, vợ con, ruộng vườn, đi theo Mao Trạch Đông tìm chân lý. Từ vỏn vẹn 12 đại biểu đại diện cho 57 đảng viên cả nước trong đại hội thành lập đảng 1921 tại Thượng Hải, đảng Cộng Sản Trung Quốc có trên 10 triệu trong đại hội lần thứ Tám vào 1956, chưa tính số đảng viên bị giết trong thời kỳ nội chiến và trong chiến tranh chống Nhật.

Tuy nhiên, sau khi tóm thâu toàn lục địa Trung Hoa, đảng Cộng Sản Trung Quốc đã lộ nguyên hình là một đảng độc tài toàn trị, chăn dân chẳng khác gì chăn trâu ngựa. Thiên đàng đâu không thấy, chỉ có một chế độ nô lệ mới ra đời trong địa ngục trần gian Trung Quốc. Giới lãnh đạo Cộng Sản Trung Quốc đã phản bội khát vọng của nhân dân, bỏ chết đói nhiều chục triệu người qua các chính sách kinh tế vô cùng ngu xuẩn trong những năm từ 1958 đến 1961, và sáng sớm ngày 5 tháng Sáu 1989 đã tàn sát thêm nhiều ngàn thanh niên Trung Quốc vô tội.

Trong lúc phong trào Thiên An Môn 1989 là một thiên hùng ca về khát vọng dân chủ tự do của con người sẽ mãi mãi được hát lên trên khắp địa cầu, nguyên nhân, diễn tiến và hậu quả thảm khốc của biến cố đã để lại những bài học hữu ích cho các phong trào sinh viên dân chủ thế giới, đặc biệt đối với các phong trào sinh viên dân chủ tại các quốc gia có hoàn cảnh chính trị tương tự như Trung Quốc trong những ngày trước mắt.

Trước hết cần sơ lược những diễn biến chính của phong trào Thiên An Môn. Tại Trung Quốc, các buổi tập hợp nhằm mục đích biểu dương sức mạnh quần chúng đã trở thành một tập quán lâu đời. Có thể vì nhiều lần và có nội dung trùng hợp, nhất là trong thời “Cách Mạng Văn Hóa” nên các biến cố thường được gọi bằng ngày tháng mà biến cố đó phát sinh thay vì nguyên nhân tạo nên biến cố. Ví dụ, Phong Trào 4 tháng Năm để nhắc nhở cuộc nổi dậy chống đế quốc qua các hiệp ước bất bình đẳng do sinh viên Bắc Kinh phát động ngày 4 tháng Năm 1919 hay biến cố 5 tháng Tư với hàng trăm ngàn người tập trung để kỷ niệm một năm ngày cố Thủ Tương Chu Ân Lai qua đời. Biến cố 4 tháng Sáu, hay còn được báo chí quốc tế gọi là biến cố Thiên An Môn, diễn ra từ 14 tháng Tư đến 5 tháng Sáu 1989, được quan tâm nhiều nhất, không những vì phong trào kéo dài nhiều tuần lễ, số người chết cao, được hàng ngàn nhà báo quốc tế theo dõi mà còn gây tác dụng mạnh mẽ đối với vị thế chính trị của Trung Quốc trong bang giao quốc tế.

Biến cố Thiên An Môn phát sinh sau khi cựu Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Trung Quốc Hồ Diệu Bang, nguyên là một lãnh tụ Cộng Sản có khuynh hướng cải cách ôn hòa, qua đời sáng sớm 15 tháng Tư 1989. Sáng hôm đó, hàng trăm ngàn người thuộc nhiều giới, trong đó có các đảng viên Cộng Sản trẻ, các nhóm Cộng Sản có khuynh hướng cải cách, các nhóm Cộng Sản thuộc phe đệ tứ tập trung để thương tiếc cựu tổng bí thư và phản đối chính sách trung ương tập quyền của đảng, đòi hỏi các cải cách chính trị, kinh tế. Trong những ngày đầu này sinh viên chưa thực sự tham gia mặc dầu có một số đã có mặt, trong đó có Chai Ling, người sẽ đóng vai trò quan trọng trong nhiều tuần sau đó. Ngày 15 tháng Tư cũng là ngày sinh nhật của cô sinh viên 23 tuổi này và như cô ta nhìn lại sau này: “Phong trào là một biểu lộ ý thức dân chủ tự nhiên của người dân và sinh viên”.

Sau tuần lễ đầu không có một lãnh tụ nào nổi bật và cũng không có mục đích cụ thể, sáng 17 tháng Tư, ba ngàn sinh viên từ Đại Học Bắc Kinh tiến về quảng trường Thiên An Môn, và tiếp theo sau, nhiều ngàn sinh viên khác từ Đại Học Thanh Hoa (Tsinghua) nỗi tiếng cũng tham gia cuộc biểu dương lực lượng. Cuộc biểu tình nhận được sự ủng hộ của các trường đại học khác ở Bắc Kinh và bắt đầu lan tràn sang các thành phố khác.

Ngày 19 tháng Tư, một liên hiệp sinh viên các trường đại học tại Bắc Kinh ra đời. Ba ngày sau, sinh viên tham dự lễ tưởng niệm cựu Tổng Bí Thư Hồ Diệu Bang tại Nhân Dân Đại Sảnh. Vào thời điểm này, một bản thỉnh nguyện bảy điểm được sinh viên công bố, gồm (1) Khẳng định quan điểm dân chủ và tự do của cố Tổng Bí Thư Hồ Diệu Bang; (2) thừa nhận chiến dịch chống sa đọa tinh thần và giải phóng tư sản là sai lầm; (3) công khai hóa lợi tức của các lãnh đạo nhà nước và gia đình họ; (4) chấm dứt việc ngăn cấm báo chí tư nhân và cho phép tự do ngôn luận; (5) tăng ngân sách giáo dục và tăng lương cho trí thức; (6) chấm dứt hạn chế biểu tình tại Bắc Kinh; (7) tổ chức các cuộc tuyển cử dân chủ để thay thế các viên chức chính phủ đã thực hiện các quyết định sai lầm. Ngoài ra, các lãnh tụ phong trào Thiên An Môn còn đòi hỏi các phương tiện truyền thông nhà nước phải công bố các yêu sách của họ cho dân chúng biết.

Ngày 26 tháng Tư, tờ Nhân Dân Nhật Báo trong bài bình luận đã tố cáo “một nhóm nhỏ âm mưu” tạo sự xáo động nhằm lật đổ đảng Cộng Sản và hệ thống xã hội chủ nghĩa. Sinh viên đã phản ứng bằng một cuộc biểu dương lực lượng của 40 trường đại học để phản đối nội dung của bài bình luận trên báo Nhân Dân. Ngày 13 tháng Năm sinh viên bắt đầu cuộc tuyệt thực trước Nhân Dân Đại Sảnh, trụ sở của Ủy Ban Thường Trực Hội Đồng Đại Biểu Nhân Dân. Hơn một ngàn người tham gia chiến dịch này. Trong lúc đó, nhiều ngàn sinh viên khác bao vây khu Trung Nam Hải, trụ sở của các cơ quan nhà nước. Tại cả hai nơi, các lãnh tụ sinh viên yêu cầu chính phủ phải công bố bản thỉnh nguyện bảy điểm. Các lực lượng công an phòng vệ giải tán bằng gậy gộc. Sinh viên phản ứng bằng cách kêu gọi đình công, bãi trường. Cả Tổng Bí Thư Triệu Tử Dương lẫn Thủ Tướng Lý Bằng đều có gặp sinh viên để tìm cách chấm dứt cuộc tuyệt thực nhưng không có kết quả. Trong các lãnh đạo đảng, Triệu Tử Dương có khuynh hướng mềm dẻo, trong lúc Lý Bằng và Đặng Tiểu Bình thiên về các phương pháp cứng rắn. Đặng Tiểu Bình trong một phiên họp mật của trung ương đảng đã cảnh giác một mối đe dọa thực sự đang xảy ra. Mặc dù vị trí nhà nước của họ Đặng tương đối thấp so với các lãnh đạo khác, y lại là Chủ Tịch Quân Ủy Trung Ương và là người có quyết định ban hành luật quân sự nhân danh các lãnh đạo nhà nước, phần lớn chỉ có tính cách lễ nghi.

Trong lúc cuộc tuyệt thực đang tiến hành, ngày 15 tháng Năm, Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Liên Xô Mikhail Gorbachev đến Bắc Kinh trong ngày đầu của chuyến viếng thăm cực kỳ quan trọng giữa hai nước. Đây là chuyến viếng thăm chính thức đầu tiên trong 30 năm và hy vọng sẽ tái lập mối quan hệ ngoại giao vốn bị rạn nứt từ thời Nikita Khrushchev. Hơn một ngàn đại diện báo chí quốc tế, trong đó rất đông do chính nhà nước Trung Quốc mời, để tường thuật chuyến viếng thăm của Mikhail Gorbachev. Luật quân sự được ban hành ngày 20 tháng Năm. Ngày 24 tháng Năm, Tổng Hành Dinh Bảo Vệ Quảng Trường Thiên An Môn được thành lập và sinh viên bậc cao học Chai Ling được bầu làm Tổng Chỉ Huy. Một bức tượng Nữ Thần Tự Do cao mười mét được dựng lên vào tuần lễ sau đó.

Lúc 5 giờ chiều ngày 2 tháng Sáu, Lưu Hiểu Ba và hai người khác bắt đầu tuyệt thực. Trường hợp Lưu Hiểu Ba rất đặc biệt vì khi mới bắt đầu xảy ra vụ Thiên An Môn ông còn ở New York. Như ông trả lời trong một cuộc phỏng vấn truyền hình sau đó, các hình ảnh trên TV Mỹ đã có tác dụng sâu sắc vào nhận thức của ông và ngày 26 tháng Tư, ông quyết định trở lại Trung Quốc qua ngả Tokyo. Ngày 2 tháng Sáu, Trung Ương Đảng dứt khoát đồng ý dọn sạch quảng đường Thiên An Môn bằng võ lực. Ngày 3 tháng Sáu, các đơn vị Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc bắt đầu tấn công vào quảng trường. Binh đoàn 27 được báo chí ghi nhận là chủ chốt gây thương vong cho sinh viên và dân chúng. Vào lúc 5 giờ 40 sáng 4 tháng Sáu, quảng trường Thiên An Môn nằm trong tay kiểm soát của quân đội. Số người bị giết được ước tính khác nhau tuy theo nguồn tin. Tình báo của NATO ước lượng 7 ngàn người bị giết trong lúc tin của Liên Xô có khoảng 10 ngàn và theo tin của cơ quan Hồng Thập Tự Trung Quốc có 5 ngàn người bị giết và 30 ngàn bị thương.

Dưới các chế độ Cộng Sản những cuộc thảm sát thường không được tiết lộ ra ngoài. Các chính sách kinh tế sai lầm tệ hại của Mao dẫn đến hàng nhiều chục triệu người dân vô tội chết oan, chết đói cũng không được thế giới biết đến một cách chi tiết. Cuộc Tàn Sát Thiên An Môn là biến cố được các hãng truyền hình ghi nhận nhiều nhất và đã có tác hại trầm trọng đến uy tín chính trị của đảng và nhà nước Cộng Sản Trung Quốc trong bang giao quốc tế một thời gian khá dài vì hai lý do. (1) Các cơ sở truyền thông quốc tế đến Trung Quốc như một trùng hợp ngẫu nhiên để đưa tin về chuyến viếng thăm Trung Quốc của Tổng Bí Thư Liên Xô Michail Gorbachev nhưng lại có cơ hội hiếm hoi ghi nhận các hậu quả của biến cố Thiên An Môn, và (2) các hãng truyền thông truyền hình của đảng trong lúc chỉ trích cuộc biểu tình qua các tin tức, phóng sự truyền hình đã vô tình tiếp tay giúp loan tin đến các tầng lớp quần chúng và kích động quần chúng tham gia biểu tình.

Dù gây một tiếng vang lớn, phong trào Thiên An Môn của sinh viên Trung Quốc đã không đạt được mục đích như đã đề ra trong tuyên bố bảy điểm và để lại cho các phong trào dân chủ trẻ thế giới nói chung và tại các quốc gia Cộng Sản nói riêng những bài học cần thiết:

1. Đoàn kết nội bộ: Theo ký giả Robert Gifford của đài BBC nhận xét nhân dịp đánh dấu 10 năm Tàn Sát Thiên An Môn, một trong những lý do dẫn đến sự thất bại của phong trào Thiên An Môn là sự thiếu đoàn kết trong lãnh đạo phong trào sinh viên. Phần lớn các lãnh tụ sinh viên tham gia một cách tự phát cuộc biểu tình chỉ vì bất mãn trước tình trạng lạc hậu kinh tế, tham nhũng xã hội và độc tài chính trị nhưng không có một nghị trình rõ ràng cần phải làm gì để chuyển hóa một tập thể đầy cảm tính sang một phong trào có tổ chức. Sự chia rẽ không những vì quan điểm mà còn cục bộ đến mức theo mỗi trường, mỗi khoa, mỗi nhóm đã diễn ra rất sâu sắc trong hàng ngũ lãnh đạo phong trào.

2. Ý thức về dân chủ: Tất cả sinh viên Trung Quốc trong lứa tuổi hai mươi trưởng thành dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, ở đó các lý thuyết dân chủ hoàn toàn không được giảng dạy đừng nói chi đến việc ứng dụng vào một hoàn cảnh xã hội đa văn hóa vô cùng phức tạp như Trung Quốc. Bản thân của những lãnh tụ sinh viên chẳng những không phải phát xuất từ thành phần chống đảng mà còn được rèn huấn bằng lý luận Cộng Sản. Cha mẹ của Chai Ling, lãnh tụ hàng đầu của phong trào là đảng viên Cộng Sản và bản thân cô là thành viên của Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Trung Ương.

3. Phong trào kéo dài quá lâu nhưng không thực hiện các biện pháp có tính quyết định: Các lãnh tụ sinh viên lẽ ra ngay từ đầu phải đặt chỗ dựa vững chắc trong lòng nhân dân, tìm mọi cách nối kết với các phong trào lao động, nhưng theo nhiều nguồn tin quốc tế, họ đã tỏ ra do dự không chịu sự hợp tác đấu tranh với tầng lớp công nhân. Thái độ thiếu dứt khoát và tầm nhìn chiến lược quá giới hạn của sinh viên đã dẫn phong trào đến chỗ bế tắc. Căn cứ vào lời phát biểu của các lãnh tụ sinh viên, dù vụ tàn sát Thiên An Môn không diễn ra, phong trào Thiên An Môn sớm muộn cũng tự giải tán. Tác giả Eddie Chang trong tác phẩm Standoff at Tiananmen mô tả tâm trạng tuyệt vọng của các lãnh tụ sinh viên trong những ngày cuối trước khi cuộc tàn sát xảy ra như trường hợp Chai Ling: “Ngoại trừ những khi thật cần để phát biểu để sinh viên lên tinh thần, Chai Ling ít khi xuất hiện và giao phó hết công việc cho phụ tá của cô”.

Đó là chưa kể các khó khăn về thông tin, vệ sinh, thực phẩm, nước uống, y tế, trật tự trong quảng trường bao la với nhiều trăm ngàn người tập trung suốt nhiều tuần lễ.

Vào thời điểm 1989, phần lớn những khó khăn đó là những khó khăn khách quan bị quy định bởi hoàn cảnh xã hội, ý thức chính trị và giới hạn thông tin tại Trung Quốc.

Nếu biến cố Thiên An Môn xảy ra hôm nay, những khó khăn đó chắc chắn sẽ được vượt qua khá dễ dàng bởi vì, về mặt chủ quan thế hệ trẻ ngày nay có một nhận thức dân chủ rõ ràng và vững chắc, và về mặt khách quan thế giới đã chuyển mình sang một thời đại thông tin rộng mở mà không nhà nước nào, không một kỹ thuật nào có khả năng bưng bít được hoàn toàn, kể cả tại Trung Quốc. Cuộc cách mạng tin học bùng nổ đầu thập niên 1990 đã giúp mang con người không phân biệt giàu, nghèo, sang, hèn, khác biệt về tôn giáo đến gần nhau trong một căn nhà. Trái đất mỗi ngày một nhỏ dần. Những hàng rào ngăn cách giữa người và người đã bị giới hạn nhiều. Nhân loại ngày nay cần được sống trong một xã hội mở, không bị bao bọc trong bốn bức tường độc tôn hay độc tài.

Một số nhà phân tích tình hình Trung Quốc cho rằng những gì đang xảy ra tại Quảng Trường Tahrir ở Cairo không thể xảy tại Quảng Trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh như giới lãnh đạo Trung Quốc đang lo lắng quá xa. Xin đừng quên, trước ngày Thiên An Môn bùng nổ 1989 không ai nghĩ biến cố đó có thể xảy ra. Các lãnh đạo nhà nước Trung Quốc được Đặng Tiểu Bình đưa lên trong giai đoạn đó như Triệu Tử Dương, Lý Bằng là những chuyên viên có đầu óc thực dụng. Chính sách bốn hiện đại hóa đang chứng tỏ thành công. Nền kinh tế Trung Quốc đang bước vào thời kỳ phát triển thứ hai với các kết quả vượt kế hoạch dự trù. Hệ thống tập thể hóa nông nghiệp đã bị xóa bỏ. Công nghiệp tư doanh phát triển một cách nhanh chóng. Giá cả hàng hóa không còn bị quy định bởi nhà nước mà theo nhu cầu thị trường. Nhưng tất cả những phát triển đó đã không đáp ứng được đòi hỏi của thế hệ thanh niên đã tiến xa hơn thực tế xã hội.

Sau ngày thảm sát Thiên An Môn tháng Sáu 1989, một nhà văn Trung Quốc dấu tên đã viết những lời tưởng niệm và dán lên bức tường Thiên An Môn chưa khô hết máu, trong đó có đoạn: “Chúng tôi vững tin tưởng rằng, sẽ có một ngày khi chúng tôi có thể hát bài hát vui mừng và chiến thắng cho những người đã chết hôm qua, cho những người đang chết hôm nay, và sẽ chết ngày mai, và cho những người gặp nhau đây rồi vĩnh biệt hôm sau.”

Đúng vậy, phong trào Thiên An Môn bùng nổ và đã bị dập tắt nhưng chắc chắn một Thiên An Môn khác đang được hình thành tại Trung Quốc bởi vì khát vọng tự do dân chủ là ngọn lửa thiêng âm thầm cháy trong lòng người dù đang sống ở đâu trên mặt đất này. Nơi nào có độc tài đảng trị nơi đó sẽ có cách mạng dân chủ. Không ai biết thời điểm nào một cách mạng sẽ diễn ra nhưng không thể phủ nhận hay trốn tránh quy luật xã hội đó.

Nếu biến cố Thiên An Môn xảy ra hôm nay, ý thức dân chủ trong thệ hệ trẻ Trung Quốc đã trưởng thành cộng với các phương tiên thông tin đang có, cuộc tranh đấu sẽ không dừng lại ở những điều thỉnh nguyện suông mà có thể dẫn đến sự sụp đổ toàn bộ hay ít nhất làm thay đổi căn bản cơ chế chính trị tại Trung Quốc. Bắc Kinh sẽ ngăn chận Internet như họ đã ngăn chận Twitter, Facebook, Flickr, Youtube, Blogspot v.v. nhân dịp kỷ niệm 20 năm Tàn Sát Thiên An Môn cách đây hai năm, nhưng phe dân chủ vẫn còn rất nhiều cách để thông tin trong nội địa cũng như chuyển và nhận tin từ nước ngoài. Một chuyên viên kỹ thuật Trung Quốc dấu tên khi được hỏi những gì sẽ xảy ra nếu biến cố Thiên An Môn đang diễn tiến hôm nay, đã thừa nhận rằng với số lượng người được nối kết vào Internet mỗi ngày tăng hàng triệu, việc chận đứng toàn bộ và lâu dài không phải là chuyện dễ dàng.

Một bằng chứng điển hình, theo The Wall Street Journal Asia phát hành hôm 31 tháng Giêng 2011, chính phủ Trung Quốc chặn hai chữ Egypt và Cairo từ các nguồn tìm kiếm internet. Hành động trẻ con đó của giới lãnh đạo đảng Cộng Sản Trung Quốc cho thấy họ luôn sống trong bất an, bị động và luôn nằm trong thế thủ hơn là thế công. Hơn ai hết, giới lãnh đạo Trung Quốc biết vị trí của họ là vị trí của một quốc gia bị bao vây, bởi vì chung quanh họ hầu hết là kẻ thù, không chỉ thù kinh tế, chính trị mà cả về văn hóa, lịch sử, địa lý. Ngoài ra, Trung Quốc ngày nay không phải là một quốc gia đang phát triển, không có gì để mất như hai chục năm trước mà là một cường quốc, dù muốn hay không, họ cũng phải đóng vai trò cường quốc với tất cả trách nhiệm quốc tế để bảo vệ quyền lợi của Trung Quốc. Nếu không, một khi phong trào dân chủ thế giới qua đi, Mỹ sẽ xuất hiện trên trường quốc tế như một cường quốc có lợi nhất, ngay cả còn mạnh hơn một nước Mỹ sau thế chiến thứ hai.

Và cho dù chế độ có thể ngăn chận được thông tin trong lục địa Trung Quốc, Bắc Kinh cũng không thể làm gì được để ngăn chận thông tin quốc tế được truyền đi qua hàng trăm phương tiện internet nhanh nhất và có tác dụng tạo nên một làn sóng công phẫn trên phạm vi toàn thế giới. Sinh viên Trung Quốc, nhân dân Trung Quốc sẽ không cô đơn như 1989 mà cả nhân loại sẽ đứng về phía họ. Hàng trăm cuộc biểu tình trước các tòa đại sứ Trung Quốc ở nước ngoài sẽ tạo nên một áp lực quốc tế thường trực không kém gì tại lục địa Trung Hoa. Thượng Nghị Sĩ John McCain phát biểu trên CNN tuần này “Chúng ta không thể chấp nhận một Tiananmen Square xảy ra tại Cairo”. Điều đó có nghĩa nếu Thiên An Môn xảy ra hôm nay, giới lãnh đạo Mỹ, vì cả hai lý do nhân đạo cũng như kinh tế, sẽ không đứng bàng quan nhìn hàng ngàn thanh niên vô tội bị nghiền nát dưới lằn xích sắt như đã diễn ra trong 1989.

Giống như cơ chế nhà nước tư bản là hệ quả khoa học của cuộc cách mạng kỹ nghệ vào thế kỷ 18, các chế độ dân chủ mở rộng ngày nay là hệ quả khoa học của một nền kinh tế đang được toàn cầu hóa. Ánh sáng tự do đang rọi vào những nơi mà trước đây không mấy ai quan tâm đến như Tunisia, Sudan, Yemen, Morocco và lần lượt sẽ đến nhiều nơi khác đang sống dưới chế độ độc tài.

Trần Trung Đạo

Tham Khảo:

1. Documentary film: The Gate of Heavenly Peace – Transcript©1995, Long Bow Group Inc.

2. Eddie Cheng, Standoff At Tiananmen (Sensys Corp.: March 2009).

3. Rob Gifford, “Student division leads Tiananmen failure,” BBC Special Report 1999.

4. Turmoil At Tiananmen: A Study Of U.S. Press Coverage of The Beijing Spring of 1989 (The Joan Shorenstein Barone Center on the Press, Politics and Public Policy, John F. Kennedy School of Government, Harvard University, 1992).

5. Wikipedia tiếng Việt “Sự Kiện Thiên An Môn”

6. Wikipedia tiếng Anh, “Tiananmen Square protests of 1989”

7. Geremie Barmé, “Beijing Days, Beijing Nights,” từ The Pro-Democracy Protests In China: Reports From The Provinces. ed. Jonathan Unger (East Gate Book: 1991).

8. chinasupport.net

9. Robin Munro, “The Bloody Road to Tiananmen,” The Nation, June 2, 2009.

Nguồn: Da Màu (damau.org)

February 4, 2011 Posted by | Biên khảo | Leave a comment

Nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con giáp – Mão/Mẹo/mèo (4B)

Theo danchimviet.info
Tác giả: Nguyễn Cung Thông
Nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con giáp – Mão/Mẹo/mèo (4B)

Thỏ và mèo

Khi so sánh các con vật biểu tượng cho 12 con giáp, điểm khác biệt rõ nét nhất là người Việt Nam ta dùng con mèo1 cho chi Mão/Mẹo nhưng người Thái, Lào, Khme, Nhật, Hàn, Trung Quốc/TQ … đều dùng con thỏ. Đây là một cánh cửa hé mở khiến ta phải đặt lại vấn đề nguồn gốc tên gọi 12 con giáp, vì nếu chúng từ TQ thì khi nhập vào các nước hay dân tộc nào đó thì theo thói thường hệ thống ‘12 con giáp nguyên thuỷ’ vẫn được duy trì – như thỏ biểu tượng cho chi Mão chẳng hạn – và nếu có thay đổi thì không có là bao nhiêu như gà so với gà trống, dê so với cừu/trừu, heo/lợn so với heo rừng …v.v… Giả sử chữ Mão 卯có nguồn gốc tượng hình con mèo như chữ thố/thỏ 兔chẳng hạn, thì không ai chất vấn nguồn gốc tên gọi 12 con giáp (động vật) và thập nhị chi làm gì. Khi truy nguyên giáp văn, kim văn và triện văn của chữ Mão thì thấy hình dạng của hình cửa mở hay hai mặt trăng đối nhau (?) – xem thêm chi tiết trang này (2003, cập nhật 2008, 2010 – tác giả Richard Sears)

http://www.chineseetymology.org/CharacterASP/CharacterEtymology.aspx?characterInput=%E5%8D%AF&submitButton1=Etymology – nguồn gốc chữ Mão chẳng dính líu gì đến một loài vật nào, như thỏ chẳng hạn. Chúng ta hãy nhìn lại vấn đề từ các góc độ khác nhau ngõ hầu có thể nhận ra được phần nào nguồn gốc chính xác và hợp lý hơn của Mão/Mẹo. Người viết sẽ tránh dùng thuật ngữ Ngôn Ngữ Học để bài viết dễ đọc hơn. Một điểm đáng ghi nhận ở đây là các thông tin trao đổi trên mạng/Internet và bloggers cũng đáng chú ý: như có khá nhiều trao đổi về chủ đề 12 con giáp và loài vật tượng trưng cho chi Mão là thỏ và mèo, bằng tiếng Anh, Việt, Pháp, Trung (Quốc)… Tuy rằng các dữ kiện trên mạng cũng cần phải được kiểm chứng một cách nghiêm túc, người viết sẽ ghi lại các nguồn để độc giả có cơ hội tra cứu thêm. Mạng lưới (toàn cầu) càng ngày càng phổ biến và trở thành một môi trường giáo dục quan trọng, cũng như giải quyết một số vấn đề mà trước đây tốn rất nhiều công sức. Cách đây gần 6 thập niên, học giả Phan Khôi từng nhận xét ‘… Người Việt Nam chúng ta về sau phải sang TQ ở lâu mà nghiên cứu, may ra tìm được các dấu vết tương quan của dân tộc ta với dân tộc TQ từ đời thượng cổ …’ – trang 34, ‘Việt Ngữ nghiên cứu’ (NXB Đà Nẵng, 1997). Tình hình bây giờ khác nhiều so với thời đại của cụ Phan Khôi.

1. Loài mèo được thuần hoá sớm hơn loài thỏ

Các xương mèo và người khai quật ở đảo Cyprus cho ta kết luận loài mèo đã sống chung với loài người và có khả năng được thuần hoá cách đây khoảng 9500 năm; So với loài thỏ thì thời kỳ thuần hoá (domestication) không rõ rệt, nhưng ước đoán cách đây khoảng 3000 năm mà thôi. Điều này cũng phù hợp với di chỉ tìm thấy ở Điền Viên Động2 (Tianyuan cave 田园洞, gần Bắc Kinh) gồm có xương người, sơn dương, khỉ, nhím và mèo hoang (civet cat). Ngoài ra, bản tin từ Tân Hoa Xã (Xinhua News Agency, ngày 22 tháng Tám, 2006) trên mạng cho ta biết về các xương thú tìm thấy sau khi bị chôn sống cách đây khoảng 1700 năm. Các xương thú vật tìm thấy gồm có mèo, chó, heo, dê, trâu và trừu… Mèo còn rất thích hợp với xã hội nông nghiệp vì là loài động vật ăn thịt (carnivore): nhà nông thường phải chứa (tồn kho) các sản phẩm vì thời tiết thay đổi bất thường, sau đó các kho hàng hoá này hấp dẫn các loài chuột, sâu bọ và ngay cả chim chóc cũng đến tìm lương thực và quấy phá… Đến nỗi nhà nông chúng ta phải ra lời ta thán

Cái cò cái vạc cái nông

Sao mày dẵm lúa nhà ông hỡi cò. (ca dao)

Mèo đã đến như vị cứu tinh để giải quyết vấn nạn trên; Khác hẳn với loài thỏ chỉ ăn rau cải (herbivore) và phá hoại mùa màng – như hiện nay, chính phủ Úc phải tìm các phương pháp hoá học (như dùng thuốc độc) hay sinh học (như cấy vi trùng bệnh) để kiểm soát dân số loài thỏ – thay vì săn bắn chúng một cách dã man. Loài thỏ thuần hoá không thể tồn tại khi nhiệt độ môi trường chung quanh lên trên 32oC, so với loài mèo có thể sống sót với môi trường ở nhiệt độ 52oC; Thân nhiệt (body temperature) của mèo thì từ 38oC đến 39oC (so với con người vào khoảng 37.5oC) tương thích với một xã hội nông nghiệp với khí hậu ôn hoà, còn thỏ lại là nguồn thực phẩm có lượng prôtêin cao cho xã hội du mục và săn bắn.

2. Tư duy nông nghiệp tổng hợp và cụ thể qua ngôn ngữ

Liên hệ Mão Mẹo và mèo rất dễ hiểu: các âm này đều thuộc thanh vực trầm3 (trọc) và nguyên âm e (của Mẹo mèo) là dạng cổ hơn của nguyên âm a (của Mão) như hè hạ (Hán Việt), xe xa, keo giao, vẽ hoạ, mè (vừng) ma, chè trà, beo báo …v.v… Tương quan tự nhiên còn thể hiện qua cách dùng lòng (bụng dạ) – bộ phận thấp nhất trong cơ thể con người – thay vì tim hay não bộ (óc): lòng tốt hay tốt bụng (hảo tâm HV), buộc lòng, mất lòng… Khi nhập vào tiếng Hán, lòng trở thành đảm 膽: theo GS Axel Schuessler4 thì đảm 膽 có gốc phương Nam (Nam Á, Austroasiatic) và một dạng âm cổ phục nguyên là *tlam? Schuessler ghi nhận âm cổ Bahna Bắc/ProtoNorthBahnar là *klàm (gan/liver), tiền Việt-Mường/Proto Viet-Muong *lɔ:m, Katuic *luam hay dạng khác hơn với phụ âm đầu t- như tiền Palaunic/proto Palaunic *kơntɔ:m (gan). Tra thêm các ngôn ngữ láng giềng ta thấy klơm (gan, tiếng Kơho), tho-lom (gan, tiếng Khme) so với LÒNG tiếng Việt gồm các bộ phận như ruột, gan … ‘Phật Thuyết Đại Báo Ân Trọng Kinh’ còn dùng ‘lòng gan đều nát’ (lòng chữ Nôm thường dùng lộng 弄, làõ theo Việt Bồ La 1651) phản ánh tương quan can đảm (Hán) và lòng gan/ruột gan (Việt); Ngoài ra cách dùng lõm súng (lòng súng, nòng súng), lõm chuối, lõm cây (lòng cây)… cho thấy liên hệ trực tiếp giữa dạng LÒNG – LÕM, thật ra khi phát âm LÒNG bây giờ – tiếng Việt luôn đóng môi lại (môi hoá, như LÒNG) chứ không để môi mở như các dạng LONG của tiếng Anh, Pháp… Tiếng Mường (Bi) còn dùng ‘lòm’ là gan: ‘ho ưa ăn lòm củi’ (tôi thích ăn gan heo). klơm là gan (tiếng Biat), k’lơm (gan, tiếng Boloven) …v.v… Tóm lại, ta có cơ sở đề nghị cấu trúc dạng cổ phục nguyên *tlam? hay *klam? đã nhập vào tiếng Hán cho ra dạng đảm 膽. Trường hợp âm cổ phương Nam *tlam?/klam? (lòng, một lòng) trở thành đảm (can đảm, đảm lược…) khi nhập vào tiếng Hán không phải là hiếm, ta còn có những trường hợp như *krong (sông) khi nhập vào tiếng Hán trở thành *kong hay jiāng BK (giang HV), …v.v… Nhìn rộng ra hơn, tên 12 con giáp Tý Sửu Dần… Mão… Tuất Hợi khi nhập vào tiếng Hán đã mất đi phần nào ý nghĩa nguyên thuỷ của tên gọi các loài động vật rất gần gũi với nhà nông. Không những thế, chúng còn được tô son điểm phấn (Hán hoá) và rất khó nhận ra các liên hệ cụ thể nguyên thuỷ: chúng trở thành những khái niệm trừu tượng (được ‘nâng cấp’) trong bói toán và cách ghi ngày tháng (kết hợp với Thập Can); Đây cũng là một lợi thế của nhóm thống trị có chữ viết sẵn (chữ Hán) và khả năng tổ chức. Lợi thế của một hệ thống chữ viết có sẵn như chữ ô vuông (chữ Hán) có thể là chỉ thêm một dấu phẩy nhỏ mà nghĩa lại đổi hẳn đi. Thí dụ như chữ quốc5 chẳng hạn, một dạng chữ quốc 囯 cổ đại viết bằng bộ vi 囗 hợp với chữ vương 王 hàm ý lãnh thổ có giới hạn/biên giới và có vua đứng đầu, tuy nhiên khi thêm một dấu phẩy nhỏ vào bên phải chữ vương thì vương 王 lại trở thành ngọc 玉. Chữ quốc cổ đại 囯 với chữ vương – phản ánh chế độ vua chúa phong kiến – nay đã thay bằng chữ quốc với chữ ngọc 国 hàm ý lãnh thổ (bộ vi) chứa những tài sản quý báu (như dân chúng, ngọc ngà châu báu/đất đai …). Chữ quốc với chữ ngọc 国 cũng là loại chữ giản thể rất thông dụng hiện nay. Hiện tượng ‘thay đổi chữ viết’ một cách thâm thuý6 trên có thể giải thích được chữ thố/thỏ 兔 đã dùng thay cho chữ miễn/*mãn/ vãn 免 – âm *mãn đã từng có nghĩa là mèo trong tiếng Việt7. Sự lẫn lộn8 giữa mèo và thỏ còn thấy trong cách dùng dã miêu 野猫 để chỉ loài thỏ hoang (wild rabbit)9 và mèo hoang trong văn hoá TQ và đáng được đào sâu hơn.

3. Lẫn lộn giữa các loài mèo và thỏ… trong văn hoá TQ

Thố tôn 兔猻 (thỏ tôn) là loài mèo hoang đang từ từ biến mất: loài thú này ở Trung Á, Tây Bá Lợi Á, Kashmir, Nepal, Thanh Hải , Nội Mông Cổ , Hà Bắc , Tứ Xuyên , Tây Tạng , Tân Cương… Thố tôn hay Xá Lị tôn 猞 猁 孫 : tiếng Anh còn dùng cụm từ Steppe cat và chúng hay sống trong các khu sa mạc. Khi người Hán tràn xuống phía Nam và Tây, ta thấy hiện tượng lẫn lộn ‘trông/nhìn mèo ra thỏ’ (trông gà hoá cuốc) như cách gọi Thố tôn này: các lẫn lộn trên giải thích được phần nào tại sao chi thứ tư Mão Mẹo liên hệ đến mèo chứ không phải là thỏ từ nguyên thuỷ. Hình sau trích từ trang mạng Bách Khoa TQ http://zh.wikipedia.org/wiki/%E5%85%94%E7%8C%BB hay xem thêm http://baike.baidu.com/view/39824.htm

Thố tôn còn được gọi là dương xá lị 洋猞猁, ô luân 烏倫, mã não 瑪瑙, mã não tặc 瑪瑙勒 … Xá lị 猞猁 là loài mèo hoang (lynx).

Miêu là từ HV nghĩa là mèo, nhưng nghĩa Hán cổ đại của miêu là loài hổ ít lông chứ không phải là mèo; Dữ kiện này hỗ trợ cho khả năng Mão 卯 chỉ là một cách ký âm của một tiếng nước ngoài (tiếng Việt cổ) nhập vào tiếng Hán. Đây là định nghĩa của miêu

【 爾雅 · 釋獸】 虎竊毛, 謂之虦貓

【Nhĩ Nhã·Thích Thú】 hổ thiết mao,vị chi sạn miêu

Sạn/sàn 虦 theo Ngọc Thiên cũng là mèo. Sạn/sàn虦 còn viết là 虥 (chữ hiếm – tần số dùng là 11 trên 237243358) chỉ loài mèo hoang có vằn.

Thố/thỏ 鵵 hay

February 3, 2011 Posted by | Biên khảo | Leave a comment